Công cuộc Phúc Âm hoá nơi các dân tộc ít người chỉ diễn ra rất muộn, từ khoảng cuối nửa đầu thế kỷ XIX, vì từ trước đó việc giao tiếp bình thường giữa người Kinh với các DTTS chưa phải là chuyện dễ dàng, nói chi đến việc các thừa sai truyền giáo cho người thuộc các anh chị em này.
Nhưng cùng với sự phát triển kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật và đà gia tăng dân số cùng nhu cầu quản lý đất nước, khai thác các tài nguyên tự nhiên trong các vùng rừng núi, những cuộc tiếp xúc với các DTTS là một nhu cầu.
Trong quan hệ với các dân tộc ít người, chế độ phong kiến Việt Nam từ nhiều thế kỷ trước đã duy trì một chính sách kiềm chế, canh chừng có tính chất miệt thị. Đến khi người Pháp thống trị Việt Nam, họ đã thực hiện những cuộc thám hiểm các vùng rừng núi nhắm vào các mục tiêu cụ thể, như chính sách “chia để trị”, cô lập các vùng sơn cước có dân tộc ít người với các vùng người Kinh cư trú, khai thác các tài nguyên lâm khoáng sản, mở mang đồn điền, kiểm soát các vùng lãnh thổ biên giới và các vùng rừng núi.
Ngay từ khi người Pháp xâm nhập Tây Nguyên ở khoảng giữa thế kỷ XIX, các dân tộc ít người đã chống đối lại việc định cư của người ngoài dù là Việt hay Pháp. Người Pháp dần dần đã biến vùng này thành Hoàng Triều Cương Thổ, làm bình phong ngăn ngừa không cho người Việt lên, để giành quyền cho người Pháp vào khai thác.
Vào cuối thế kỷ XIX, người Pháp thiết lập hệ thống hành chính, chia Tây Nguyên làm ba tỉnh Kontum, Pleiku và Đăklăk. Việc bình định Tây Nguyên là một quá trình khó khăn và chậm chạp. Các thừa sai Công giáo cũng như các viên chức và quân sĩ Pháp đều bị tấn công. Cuộc nổi dậy của Me Sao năm 1905 đã đánh phá vùng đất giữa M’drac và Buôn Ma Thuột.
Sau khi đánh tan cuộc nổi dậy của Me Sao, dưới quyền của Công sứ Léopold Sabastier, người Pháp đã xây dựng một hệ thống quản trị mới dựa trên nghiên cứu và tôn trọng các luật lệ, tập tục của người DTTS, lập bệnh viện, trường học, làm đường xá. Từ năm 1925, nhiều nhà khai thác người Pháp đã vào Tây Nguyên và trên các khu đất đỏ phì nhiêu ở Tây Nguyên, 92.000 hecta đã sớm biến thành các đồn điền do các chủ nhân Pháp chiếm hữu và quản lý.
Chính trong bối cảnh này, hoạt động truyền giáo được tiến hành tại vùng Kontum, Pleiku cũng như Buôn Ma Thuột.
Việc truyền bá Tin Mừng cho các dân tộc ít người có thể chia thành nhiều giai đoạn như sau:
Vùng Kontum, Pleiku, Buôn Ma Thuột
Giai đoạn 1838-1932
1. Khi các nhà truyền giáo mở đầu công việc ở Tây Nguyên, sau giai đoạn tạm yên ổn với Nguyễn Ánh, từ năm 1825 dưới triều Minh Mạng, đạo Chúa đã bị ngăn cấm. Trong thời gian l838-1840, hầu như toàn bộ cơ sở thờ tự của Giáo hội Đàng Ngoài bị tàn phá, giáo dân bị bức bách phải bỏ đạo. Có thể cuộc bách hại là nguyên nhân trực tiếp khiến cho những người Công giáo ở miền đồng bằng muốn tìm một nơi an toàn để giữ đạo và đồng thời cũng ý thức hơn về nhu cầu truyền đạo cho các anh chị em DTTS.
Từ năm 1838, hai nỗ lực truyền giáo đầu tiên do đoàn của Cả Ninh từ Cam Lộ và Cả Quới từ Phú Yên lên Tây Nguyên đều bị bỏ dở. Có thể một số vị thừa sai tiên phong này đã tiếp xúc với người Bru cư trú ở phía Tây Quảng Trị, Thừa Thiên.
Với sự điều động của Đức cha E. T. Cuénot Thể, Cả Ân xây dựng một địa điểm liên lạc gọi là Trạm Gò giữa miền Cao và miền Xuôi. Đến năm 1842, thừa sai J. C. Miche và Duclos cùng với 11 thầy giảng và 3 giáo dân từ Phú Yên lên Tây Nguyên, nhưng họ bị bắt ngay.
Năm 1846, một trung tâm truyền giáo mới được thiết lập ở Buôn Đôn, Buôn Ma Thuột do hai cha Vận và Hoà phụ trách.
2. Năm 1848, sau khi du học từ Penang (1839) trở về, thầy Phanxicô Nguyễn Do được Đức cha Cuénot tin cậy giao phó cho việc mở đường truyền giáo cho Tây Nguyên qua ngả An Sơn (An Khê) dưới danh nghĩa đi buôn. “Đoàn buôn Sáu Do” cùng với thừa sai Jean Pierre Combes Bê, một số thầy giảng và chủng sinh đã từ Gò Thị lên đến Plei Bong Mor, lại phải về. Họ bắt đầu lần nữa, từ Gò Thị lên Bến, Trạm Gò, rồi bị voi rượt phải chạy về Bình Định.
Trong những chuyến đi rừng các thừa sai tiên phong đã tiếp xúc cả với một số người Hrê và Hroi đi lại sinh hoạt ở vùng rừng núi phía Đông Kontum giáp ranh với Phú Yên, Bình Định. Một số người tin đạo, nhưng lòng tin của họ chưa bén rễ sâu, vì họ chưa sẵn sàng từ bỏ nhiều tập quán, nghi thức bộ lạc trước kia của họ.
Năm 1850, cuộc kết nghĩa của những nhà truyền giáo tiên khởi với lãnh tụ Ba Na (Bahnar) Bok Kiơm mới khai thông bước đầu hoạt động. Một nhà nguyện chòi lá đầu tiên được dựng lên tại Kon Kơlang.
Năm 1851, bốn trung tâm truyền giáo hình thành tại Kon Kơxâm (do cha Combes phụ trách cho người Bahnar Re Ngao), Plei Rơhai cha B. Desgouts Đề và thầy Do cho người Bahnar Jơlong), Kon Trang Mơnei (cha P. Dourisboures cho người Xơ Đăng) và Plei Chư (cha Fontaine Phẩm cho người Gia Rai). Thừa sai Combes Bê làm Bề trên tiên khởi miền truyền giáo Tây Nguyên. Các cơ sở truyền giáo dần dần được xây cất. Cũng trong năm này, thầy Do chịu chức linh mục.
Ngày 28-12-1853, tín đồ DTTS đầu tiên được rửa tội là một người Ba Na, mang tên Giuse Hmur.
Khi cha Combes mất năm 1857, thừa sai P. Dourisboures Ân, nối tiếp chức vụ Bề trên miền truyền giáo Kontum cho đến năm 1881. Cha Ân viết nhật ký truyền giáo Les Sauvages Bahnars, 1865-1870, và xuất bản Tự điển Ba Na. Có thêm nhiều người DTTS tin đạo và thêm nhiều họ đạo mới được mở. Cha Vialleton làm bề trên thứ 3 miền Kontum.
Cha Guerlach, trong những năm 1880, đã cố gắng tiếp xúc với các người Xơ Đăng và Re Ngao trong khu vực Kontum qua việc mang thuốc đến chữa bệnh đậu mùa cho họ. Nhưng trong nhiều năm, họ vẫn tỏ ra nghi ngờ giá trị của thuốc Tây và các thừa sai Công giáo rất khó thuyết phục họ. Nhưng năm 1883, đã có khoảng 1.500 người Ba Na và Re Ngao tin đạo. Cũng nhờ có thuốc chích ngừa bệnh do các thừa sai mang đến, bệnh dịch đậu mùa trong nhiều làng đã bị chặn đứng năm 1893.
Từ năm 1885, một số giáo dân người Việt chạy nạn Văn Thân từ miền xuôi lên tá túc tại các họ đạo ở Kontum như Kon Jơdreh, Kon Trang và Plei Tơjai.
3. Trong các năm 1886 đến 1908, có cả một phong trào các làng theo đạo lập nên nhiều họ đạo mới, vào chính lúc một sĩ quan phiêu lưu người Pháp xưng danh là Marie I, vua người Xơ Đăng, muốn lập một quốc gia liên kết ba bộ tộc Ba Na - Re Ngao - Xơ Đăng ở Tây Nguyên. Đến cuối năm 1901, có 8.000 tín đồ Ba Na, trung tâm Yao Phu Cuénot được khởi công xây dựng.
Trong giai đoạn 1908-1932, dưới quyền Bề trên Miền Guerlach Cảnh (1908-1912), Émile Kemlin Văn (1912-1924), Martial Jannin Phước (1924-1932), trường Cuénot khánh thành năm 1908, bắt đầu nhiệm vụ đào tạo các nhà truyền giáo người DTTS, cung ứng cho 94 làng theo đạo và trở thành các họ đạo.
Trong suốt giai đoạn mở mang miền truyền giáo Tây Nguyên, 1848-1932, có sáu giám mục quản nhiệm giáo phận Tông toà Đông Đàng Trong chịu trách nhiệm coi sóc miền truyền giáo Tây Nguyên. Đó là các Đức cha Cuénot Thể (1840-1861), E. Charbonnier Trí (1864-1878), Louis Galibert Lợi (1879-1883), F.X. Camelbecke Hân (1884-1901), D. Grangeon Mẫn (1902-1930), Augustin Tardieu Phú (1930-1942).
Giai đoạn 1932-1967
Ngày 18-1-1932, giáo phận Kontum được thành lập, với 3 linh mục Ba Na đầu tiên: Cha Đen, Hiau và Châu. Ngày 23-6-1933, cha Jannin được bổ nhiệm làm giám mục tiên khởi Kontum.
Khi đó, giáo phận Kontum có diện tích 40.000km2, bao gồm các vùng Kontum, Pleiku, Buôn Ma Thuột và Attâpư (bên Lào), với dân số chung là 750.000 người, trong đó 18.119 tín đồ DTTS, 5.533 tín đồ Kinh, 27 linh mục gồm 3 Ba Na, 11 Việt và 14 Pháp, hai dòng tu nữ gồm 3 chị Bác Ái, 32 chị Mến Thánh Giá, 19 thầy giảng, 225 Yao Phu và 160 giáo lý viên. Các tu sĩ dòng Thánh Giuse lên dạy học.
Riêng Kontum có 18.061 tín đồ DTTS và 3.247 tín đồ Kinh phân bố trên 3 xứ và 14 họ lẻ. Pleiku có 863 tín đồ DTTS, 2.168 tín đồ Kinh phân bố trên 4 họ đạo. Có tất cả 17 làng Công giáo Kinh được thành lập từ năm 1872 đến 1932.
Năm 1933, miền Buôn Ma Thuột được tách thành một khu vực riêng; nguyệt san “Chức Dịch Thơ Tín” ra đời. Chủng viện Kontum được xây dựng (1934), mở rộng hoạt động truyền giáo cho các bộ tộc Gia Rai, Xơ Đăng. Dòng Bác Ái đến Kontum lo cho người phong (1938).
Nhật chiếm Kontum (13 đến 14-3-1945), tập trung các thừa sai tại Nha Trang.
Cha Jacques Dournes chuyển đến truyền đạo cho người Hrê (1946).
Năm 1947, tình hình giáo phận như sau: 1 giám mục, 28 linh mục (3 Ba Na, 14 Việt, 11 thừa sai nước ngoài), 33 nữ tu, 215 Yao Phu, 10 chức việc, 23 đại chủng sinh, 2.923 dự tòng, 23 hạt Công giáo gồm 151 cơ sở Ba Na, 27 cơ sở người Kinh, 23 nhà thờ và 133 nhà nguyện.
Năm 1950, kỷ niệm 100 năm truyền giáo Tây Nguyên.
Năm 1955, lập Trung tâm Dự tòng Gia Rai Cheo Reo-Tơlui. Năm sau, hình thành 2 giáo điểm Cheo Reo và Chư Mô, rồi lập Ban Giáo dục Người Dân tộc trong giáo phận. Các tu sĩ dòng La San lên dạy học, các tu sĩ dòng Phaolô đến Cheo Reo.
Giai đoạn 1967-1999
Năm 1969, lập giáo điểm Ia Rbol gồm 11 làng Gia Rai. Các tu sĩ dòng Con Đức Mẹ VN, dòng Chúa Quan Phòng (1970), anh em dòng Tiểu Đệ (1974) lên Pleiku, và dòng Chúa Cứu Thế với Trung tâm Truyền giáo Gia Rai Pleikly. Chủng viện Kontum bị pháo kích phải chuyển đi Tùng Lâm (1972).
Năm 1975, xảy ra cuộc di tản ở Tây Nguyên ngày 17-3.
[Xem Bảng tổng kết phong trào tin đạo nơi người Gia Rai (1988-1997) ở trang bên]
Vùng Buôn Ma Thuột
Ngày 22-6-1967, thành lập giáo phận mới Ban Mê Thuột, gồm tỉnh Buôn Ma Thuột, Quảng Đức, Phước Long (2 tỉnh sau tách từ gp. Đà Lạt). Đức cha Nguyễn Huy Mai được bổ nhiệm làm giám mục chính toà tiên khởi, ngày 15-8.
Ngay từ năm 1846, hai thừa sai người Việt đã đến Buôn Đôn, vùng Buôn Ma Thuột để mở mang việc truyền giáo nơi người Êđê và M’nông. Nhưng các hoạt động ở khu vực này bị hạn chế do nhiều nguyên nhân: hệ thống giao thông từ Buôn Ma Thuột đi đến các buôn làng Thượng chưa được phát triển, phản ứng của các DTTS ở Tây Nguyên chưa thuận lợi, chưa đủ các nhà truyền giáo để đảm nhiệm các công việc, viên chức Pháp ở vùng Buôn Ma Thuột cũng gây khó khăn cho các thừa sai Pháp ở Tây Nguyên.
Năm 1934, bắt đầu có gia đình truyền giáo Tin Lành, ông bà G.H. Smith, đến Buôn Ma Thuột lo cho cả miền Tây Nguyên, mọi nỗ lực truyền bá đạo Công giáo ở khu vực này vẫn bị các viên chức người Pháp giới hạn.
Năm 1938, chỉ có một nhà thờ duy nhất ở thị xã Buôn Ma Thuột, gắn liền với giáo xứ Pơlei Po (La Sơn) ở địa giới Pleiku, với khoảng 50 tín hữu.
Chỉ sau năm 1954, trong điều kiện có sự phân bố di dân từ miền Bắc vào các tỉnh vùng Tây Nguyên, phần lãnh thổ nay thuộc giáo phận Ban Mê Thuột mới chứng kiến việc tiếp xúc mở rộng của các nhà truyền giáo Công giáo với các anh chị em DTTS.
Khoảng năm 1963, có 51.105 tín hữu do 49 linh mục di cư từ miền Bắc vào chăm sóc ở khắp 41 giáo xứ. Năm 1975, có 61.289 tín hữu, 69 linh mục ở 42 xứ. Số tín hữu DTTS không đáng kể.
Sau ngày 11-3-1975, cả giáo phận Ban Mê Thuột rơi vào những năm khó khăn chung.
Từ năm 1987 đến nay, giống như tại giáo phận Kontum, có phong trào anh chị em DTTS ở Buôn Ma Thuột tìm đến các họ đạo Công giáo để xin chuẩn bị tòng giáo, bất chấp mọi khó khăn, gian khổ. Họ nhận ra Giáo hội Công giáo biết tôn trọng có chừng mực các tập quán văn hoá và truyền thống tốt đẹp của dân tộc họ. Khi tòng giáo, họ được thêm đức tin vào Chúa, vẫn tìm thấy Chúa trong chính các giá trị văn hoá tích cực của họ. Khi gia nhập vào một cộng đoàn Giáo Hội, họ được đối xử như những thành viên bình đẳng, được mến yêu, được tạo điều kiện để hiểu đạo và sống đạo như các anh chị em đồng đạo khác.
Năm 1995, giáo phận có 56 linh mục coi 48 họ đạo với số giáo dân lên đến 185.000, kể cả các anh chị em dân tộc. Năm 2000, giáo phận có 49 họ đạo với 253.158 giáo dân.
Chẳng hạn tại giáo xứ Vinh Hoà, hiện có khoảng 700 tín hữu DTTS chính thức, và 1.200 tín hữu dự tòng. Các nữ tu dòng Nữ Vương Hoà Bình hiện đang góp phần tích cực trong việc giảng dạy giáo lý và giúp đỡ họ về các mặt xã hội, thể hiện tinh thần bác ái, để củng cố đức tin còn non nớt của họ.
Tại giáo xứ Bù Đăng, hạt Phước Long, có hơn 8.000 giáo dân, trong đó đã có trên 6.000 tín hữu DTTS người M’nông, Xtiêng, Tày, Nùng (di chuyển từ miền Bắc vào)… chung quanh vùng thị trấn Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.
Vùng Bình Phước
Từ năm 1846, thừa sai người Pháp là cha Pierre Arnoux đã đến với người Xtiêng, sau một thời gian nghiên cứu về địa thế và tìm hiểu con người, cha đã lập nên một giáo điểm tại Brơlâm. Brơlâm là địa danh chỉ một vùng rộng lớn từ Lái Thiêu qua Thủ Dầu Một đến phía Bắc tỉnh Bình Dương. Đây chính là địa bàn sinh sống lâu đời của người Xtiêng. Công việc ban đầu của cha thật gian khổ vì rừng sâu nước độc, lại có nhiều muỗi gây bệnh sốt rét. Cha vẫn chịu đựng, học tiếng Xtiêng để có thể giao tiếp và cảm thông với cuộc sống hằng ngày của họ. Ròng rã 15 năm vất vả, cha vẫn không thu lượm được kết quả bao nhiêu.
Năm 1861, dưới thời Đức cha D. Lefèbvre, hai thừa sai Henri Azémar và Jean Éveillard được bổ nhiệm tăng cường việc truyền giáo. Nhưng môi sinh tự nhiên thật khắc nghiệt: cha Arnoux bị sốt rét nặng phải về Hong Kong điều trị và mất tại đó, cha Éveillard chuyển về chủng viện, chỉ còn một mình cha Azémar.
Năm 1866, trong cuộc nổi dậy Poucom-bo chống Pháp xảy ra ở vùng biên giới Việt-Miên, giáo điểm Brơlâm bị tàn phá và nhiều tín đồ Xtiêng bị giết chết. Cha Azémar chạy thoát về Thủ Dầu Một và được giao trông coi họ Lái Thiêu.
Nhưng, cha không quên anh chị em dân tộc Xtiêng. Cha tìm kiếm những anh chị em sống sót, quy tụ được tất cả được 6 cháu cô nhi do biến cố Poucom-bo, và đưa về dưỡng nuôi tại Lái Thiêu, xây dựng gia đình cho họ, giúp họ thành những giáo lý viên cho chính đồng bào của họ. Cha Azémar đã để lại 1 tự điển, 1 sách giáo lý và 1 sách kinh tiếng Xtiêng, nhưng chỉ có tự điển được xuất bản. Trong thập niên 1860-1870, có nhiều người Xtiêng tin đạo, nhưng sau đó không một tài liệu nào nói đến cộng đoàn Công giáo Xtiêng ở Brơlâm nữa.
Trong suốt nhiều đợt cấm đạo, thời kỳ 1825-1882, người Công giáo không thể cư trú cố định một nơi. Nhiều người tìm đến những nơi xa chốn thị tứ, có người tìm đến Đá Trắng hay Bố Mua ở sâu trong vùng Bình Phước, kết thành một họ đạo. Năm 1867, ngôi nhà thờ được dựng lên quy tụ 264 người, cả Việt lẫn Xtiêng, dưới sự chăm sóc của cha Azémar. Cha Arnoux cũng có lúc tới đây để giúp về mục vụ. Dần dần chỉ còn các tín hữu người Việt, vì anh chị em Xtiêng chuyển lên các vùng cao hơn. Việc truyền giáo cho người Xtiêng bị gián đoạn.
Năm 1994, tại một làng Xtiêng ở sâu trong rừng giáp với một khu đồn điền ở Bình Long, còn có những gia đình Công giáo Xtiêng tiếp tục giữ đạo và tôn kính ảnh đạo trong nhà của họ.
Vùng Di Linh, Đà Lạt
Những tiếp xúc ban đầu với dân tộc Thượng ở vùng cao
Cho đến năm 1899, dân vùng Di Linh, Đà Lạt vẫn chỉ tiếp xúc với quan quyền qua ngả Phan Rí. Nhưng năm 1882, thừa sai Gonzague Voillaume Đề mới 24 tuổi được cử đến Phan Rang, coi sóc cả vùng Phan Rang, Phan Thiết có khoảng 2.000 giáo dân: Láng Mun (Tân Hội, Phan Rang), Xóm Gò, Dinh Thuỷ (Tấn Tài), Mai Nương (Cầu Chuối) và Rừng Lai (Đá Hàn).
Tháng 5-1885, phong trào Văn Thân nổi lên, một số giáo dân ở Láng Mun, bị bách hại, cha Voillaume chạy thoát, cùng với thầy Sáu Khiêm và hai chú giúp việc theo ngả Đơn Dương, xuống Di Linh, rồi mất gần một tháng mới về được Sài Gòn. Khi cha Voillaume trở về nhiệm sở năm 1887, xứ đạo chỉ còn 400 giáo dân trong cảnh hoang tàn. Cha qua đời năm 1900.
Tiếp theo đó là các đoàn thám hiểm của Pháp từ ven biển đi lên, với Alexandre Yersin có lẽ theo đường Tamon (Gun Phori), vào tháng 3-1890, từ Phan Rí qua Tam Bố hay theo sông Mao qua Lang Hanh ngược lên phía Di Linh. Yersin bị sốt rét, chỉ đi được trong thời gian ngắn nên bỏ cuộc. Đúng ba năm sau, Yersin lại đi lần thứ hai, từ tháng 3 đến tháng 7-1893, theo con đường từ Nha Trang, sông Đa Nhim, Đơn Dương, qua Fimnon, Prenn và đến tận vùng Lâm Viên, Đà Lạt vào đúng 15g30 ngày 21-6-1893.
Ernest Outrey được lệnh lập tỉnh Đồng Nai Thượng ngày 1-11-1899, bao gồm cả một diện tích rộng lớn. Ngay giữa thế chiến I (1914-1918), tỉnh Lâm Viên được thành lập với Đà Lạt làm thủ phủ, và Cunhac làm Công sứ đầu tiên, theo quyết định ngày 6-1-1916.
Hai năm sau, cha Nicolas Couvreur, quản lý hội Thừa Sai ở Singapore, được phép lập một Nhà An Dưỡng và một họ đạo tại Đà Lạt, với cha Frédéric Sidot là quản đốc đầu tiên (1920). Một nhà nguyện có kiến trúc kiểu đình Việt Nam và một cô nhi viện được xúc tiến xây dựng ngay.
Cơ sở truyền giáo cho các dân tộc Thượng ở Di Linh
Sau gần hai mươi năm bị giải thể, tỉnh Đồng Nai Thượng được tái lập với diện tích gồm Đơn Dương, Đức Trọng, Di Linh và một phần Định Quán ngày nay. Đường từ Phan Rang - Ngoạn Mục - Đà Lạt xong thì đường xe lửa răng cưa được khởi công và đến năm 1933 mới hoàn thành.
Công trình hạ tầng đó đã cuốn hút nhiều người ao ước lên miền Cao Nguyên. Ngày 13-10-1926, Đức Cha Isidore Dumortier Đượm mua thửa đất của ông Mười Ngô Châu Liên (ông đã mua lại của người Cơ Ho, tên là K’Brai) làm cơ sở truyền giáo Thượng đầu tiên cho vùng Di Linh.
Ngày 14-10-1926, cha Jean Cassaigne Sanh được lệnh thuyên chuyển ra Di Linh khi đang học tiếng Việt tại Cái Mơn, cha mới từ Pháp sang Việt Nam được 8 tháng. Ngày 30-1-1927, thánh lễ Chủ nhật chỉ vỏn vẹn có 5 người. Chung quanh chỉ thấy rừng với hươu nai, heo rừng sinh sống tự do trên sở đất của nhà thờ. Chỉ sau hai tháng đến Di Linh, cha đã là nạn nhân của bệnh sốt rét rừng.
Năm 1928, họ đạo có 36 tín hữu trong đó có 12 người Pháp, 4 người Việt dự tòng và 20 tín hữu người Việt sống rải rác trong vùng cách Di Linh chừng 50km. Nhưng nhiệm vụ của cha là truyền đạo cho người Thượng, nhất là các dân tộc trong nhóm Cơ Ho (Xrê, Ma, Chil, Tring, Noang, Nop, Lat…).
Những năm đầu, cha phải học tiếng Cơ Ho bằng cách tiếp xúc với các anh chị em Thượng, rồi ghi chép lại. Năm tháng sau khi lên nhiệm sở, cha làm một nhà thờ riêng biệt với nhà xứ, rồi bắt đầu dạy học, dạy giáo lý và làm cả thầy thuốc chữa bệnh. Công việc rất khó khăn vì thầy trò chưa hiểu tiếng nhau. Cuốn Tự điển Cơ Ho-Pháp-Việt của cha được in xong tại nhà in Tân Định ngày 28-12-1929.
Cha lo cho anh chị em Thượng, không phải chỉ những người bình thường mà cả những người bị bệnh phong. Một người đàn bà Cơ Ho bị phong đầu tiên tin đạo. Bà là 1 trong 6 người bệnh mà cha giúp cho ít gạo, muối, thịt nai mỗi tuần. Cha dạy bà biết có Chúa Trời Đất và sự quan phòng của Ngài. Bà tin nhận và cha rửa tội cho bà ngày 7-12-1927.
Năm 1928, thấy nhu cầu giúp đỡ người bị bệnh phong quá lớn, cha quyết định lập một làng riêng cho họ trên một khoảng đất trống ở chân đồi 1081, cách nhà xứ khoảng 1.000m. Ngày 11-4-1929, làng phong chính thức được chính quyền đương thời công nhận và yểm trợ. Con số 21 bệnh nhân ban đầu đã lên tới 100 sau 4 năm. “Bép” Cassaigne được mọi người thương mến, cha vận động tiền của để chính những bệnh nhân tự lo xây dựng thêm nhà cửa, đường xá và các tiện nghi khác cho làng của mình.
Gia tăng hoạt động truyền giáo
Sau khi hệ thống giao thông cơ bản hoàn tất, chính quyền thuộc địa cổ vũ việc khai thác Cao Nguyên theo các trục lộ chính. Khu tứ giác 200.000 mẫu giới hạn bởi Prenn, KrongPha, Fimnon, Dran được chú ý trước nhất. Nhân công được đưa từ vùng châu thổ sông Hồng vào. Từ đó, giáo xứ người Việt dần dần được hình thành ở Bắc Hội (năm 1928, 35 giáo dân, gần ngã ba Fimnon). K’Brai, người anh em Cơ Ho đầu tiên, tin đạo và chịu bí tích Rửa Tội ngày 19-3-1930. Đến lễ Giáng Sinh năm đó, cả 8 người trong gia đình K’Brai tin Chúa, trước khi cha Cassaigne phải về trị bệnh tại Pháp năm 1932, cha Henri Sion đến tạm thay thế. Năm 1932, họ đạo Di Linh có một nhóm tín hữu khá khiêm tốn: 60 người Việt, 31 người Pháp, 18 người Thượng và 96 dự tòng.
Sau 9 tháng nghỉ bệnh, cha Cassaigne trở lại Di Linh ngày 22-2-1933, trong tình hình kinh tế Đông Dương suy sụp nặng từ 1932-1937. Ngày 26-5-1935, nhân dịp Đức cha Dumortier đến Di Linh, 88 tân tòng chịu phép Thêm sức (49 người Thượng, 39 người Kinh). Cũng năm này, dòng Nữ Kinh sĩ Augustin đến Sài Gòn và ngày 9-1-1936, đến hoạt động tại Đà Lạt, ở họ đạo Trường Xuân (Cầu Đất).
Trong thập niên 1930-1940, khi Trung tâm Thực nghiệm Nông học Công Hinh hình thành với công tác khai thác nguồn lợi lâm thổ sản ở Cao Nguyên, một họ đạo cũng được xây dựng ở Công Hinh. Công Hinh là địa danh cũ của B’lao hay Bảo Lộc, gồm 4 làng Đa Binh, Đang, Đạ, Conte’h và B’lạch. Tổng số tín hữu của họ đạo vào dịp Giáng Sinh năm 1936 là 42 người. Với tiền giúp đỡ từ dòng Nữ Kinh sĩ Augustin, cha Cassaigne đã cất lên một nhà nguyện khang trang và sau đó một trường sơ cấp cho họ đạo mới lập. Trường khai giảng năm 1938 với 30 học sinh.
Năm 1939, nhiều người Cơ Ho Xrê trong các làng Thượng sâu hơn tin đạo: làng K’Long Tran và Dong Dor có 60 tân tòng. Theo yêu cầu của 6 đại diện Thượng, cha Cassaigne và anh K’Brai, phụ tá giáo lý, đến thăm các làng ở chân núi Yan Doan: Kulbum, Kala, B’sourt, Kort, R’hangung, Drou Tou, và chọn Kala làm nơi cất lên một chòi tranh làm trạm giáo lý mà cha đến với họ hằng tuần.
Họ đạo Công Hinh có 170 người, trong lúc họ chính Di Linh chỉ có 106 người. Trong các năm 1940-1942, đợt di dân đầu tiên có thêm 20 gia đình từ miền Bắc vào, đợt sau có 81 gia đình, trong đó có 70 gia đình Công giáo. Năm 1940, số giáo dân là 220 tại Công Hinh và 220 tại Di Linh. Năm 1941, họ đạo Công Hinh trở thành giáo xứ B’lao với 350 giáo dân trong 40 gia đình.
Ngày 24-2-1941, một điện khẩn do Khâm sứ Toà Thánh P. Drapier ký tên gửi đến Di Linh, thông báo việc Toà Thánh chọn cha Cassaigne làm giám mục. Ngày 23 đến 26-3-1941, Đức cha mới ban Thêm Sức cho tất cả 52 bệnh nhân phong, 84 người ở Di Linh và 22 người tại Công Hinh.
Dưới thời cha xứ Cassaigne ở Di Linh, một cộng đoàn Công giáo hình thành với một nhà thờ, 795 giáo dân. Ngày 24-6-1941, cha Cassaigne thụ phong giám mục tại nhà thờ chính toà Sài Gòn.
Sau năm 1954, cuộc di dân từ miền Bắc lên các phần lãnh thổ thuộc Cao Nguyên Nam Trung Bộ đã thay đổi tình hình Giáo hội tại địa phương này. Năm 1960, giáo phận Đà Lạt được thành lập. Khoảng giữa năm 1963, giáo phận Đà Lạt có 46.305 tín hữu (Kinh và Thượng), với 43 linh mục (3 nước ngoài và 40 Việt Nam) trông coi.
Hoạt động truyền giáo nơi các DTTS trong giáo phận không được ghi nhận một cách đầy đủ và liên tục cho từng giáo điểm.
Sau những năm khó khăn kể từ ngày 30-4-1975, trong những năm 1988-1997 và cho đến nay, một phong trào tin nhận Đạo Chúa cũng phát triển mạnh mẽ nơi các anh chị em dân tộc trong giáo phận Đà Lạt như tại nhiều giáo phận khác có anh chị em dân tộc ít người cư ngụ.
Năm 1995, giáo phận có 1 giám mục, 57 giáo xứ và 39 giáo họ, với 118 linh mục (83 triều, 35 dòng), 488 tu sĩ phụ trách coi sóc 190.026 tín hữu (145.473 Kinh và 44.553 DTTS). Năm 2000, giáo dân tăng tới lên 250.669 người, trong số đó có 64.261 người DTTS.
Cộng đồng Công giáo người Hoa ở TP. Hồ Chí Minh
Tại Tổng giáo phận TP. Hồ Chí Minh, những anh chị em tín hữu người Hoa tin đạo đã lập nên hai cộng đoàn: một tại Chợ Lớn (họ đạo Thánh Phanxicô Xaviê với 2.500 giáo dân) và một tại Sài Gòn (họ đạo Hoà Bình với 80 giáo dân). Trước năm 1975, với sự trợ giúp của một hội dòng từ Bỉ, cộng đồng tín hữu người Hoa đã lập nên hai trường trung học khá nổi tiếng, trường Thái Bình Dương Tự Do (đường Nguyễn Trãi) và trường Minh Viễn (đường Nguyễn Tri Phương), quy tụ hàng nghìn học sinh người Hoa theo học.
Số người Hoa trong cả nước hiện có hơn 900.000 người, trong đó trên một nửa tập trung ở TP. HCM. Số còn lại rải rác ở các nơi khác: giáo phận Xuân Lộc có khoảng 100 gia đình, giáo phận Đà Lạt, Cần Thơ có khoảng 30 gia đình.
Người Hoa có tín ngưỡng cao, biểu lộ qua việc đến cúng giỗ tại các chùa vào những ngày rằm mỗi tháng. Họ sống gắn bó với nhau trong các bang hội để giúp nhau làm ăn sinh sống. Mỗi lần hội họp, họ có thói quen cúng giỗ trước tượng Thần-Phật. Điều này đã khiến nhiều người Hoa ngại ngùng theo đạo Công giáo vì nghĩ rằng theo đạo là phải cắt đứt với những lễ nghi ấy, cũng có nghĩa là cắt đứt việc liên hệ với bang hội và chắc chắn họ sẽ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống.
Các dân tộc thiểu số ở miền Bắc
Các nỗ lực truyền giáo cho các DTTS ở phía Bắc đã diễn ra khá chậm so với các dân tộc ở phía Nam. Điều này do những nguyên nhân chung: khác biệt ngôn ngữ, tập quán phức tạp, địa bàn cư trú khó lui tới, điều kiện khí hậu và môi sinh không mấy thuận lợi, thiếu những người chuyên trách, và vùng DTTS cư ngụ có khi là những vùng căn cứ địa kháng chiến. Một số nơi được truyền đạo thường là do một số các linh mục tuyên uý Công giáo. Các cha mang quân hàm sĩ quan quân đội Pháp làm việc cho các đơn vị quân đội hay cơ quan có nhiều tín hữu Công giáo, rồi nhân đó mở mang việc truyền giáo cho các DTTS chung quanh. Điều này dễ gây ra những hiểu lầm, nghi kỵ.
Một số người Mường và Thái ở vùng Hoà Bình hay Lai Châu cũng như người Nùng, người Hoa ở vùng biên giới (Hòn Gay, Móng Cáy) thuộc Quảng Ninh cũng đã biết đến đạo Chúa và tin theo. Rất nhiều người DTTS thuộc các giáo phận Hưng Hoá, Lạng Sơn, Bắc Ninh và Hải Phòng đã tin Chúa, nhưng hiện nay, chưa có số liệu thống kê chính xác.
Vào cuối thế kỷ XIX, các thừa sai Công giáo đã có những nỗ lực truyền đạo nơi người Mường. Các tín đồ Công giáo người Việt thường đến sinh sống gần các trung tâm có đông dân cư người Mường, làm nên một cộng đoàn dân cư riêng biệt. Dần dần, qua tiếp xúc với người Công giáo, nhiều người Mường bắt đầu tin đạo. Làng Mường nào có đủ số tín hữu Công giáo có thể xoá bỏ vai trò tín ngưỡng cổ truyền của các thổ lang sẽ thành làng Công giáo toàn tòng. Trên lý thuyết, khi thổ lang tin đạo thì cả làng tự động theo đạo, nhưng biến cố này chỉ xảy ra một lần ở giai đoạn truyền đạo ban đầu. Do đặc điểm này, các thừa sai ban đầu có lúc chú trọng đến việc truyền đạo cho những người có uy thế trong xã hội Mường. Tuy nhiên, dù trong làng có nhiều người tin đạo, thổ lang cũng không nhất thiết tin đạo.
Một số người trong các dân tộc này đã di cư vào Nam sau Hiệp định Genève năm 1954, đến định cư ở Tây Nguyên hay Sài Gòn.
Trong cá