Nhìn lại những chặng đường lịch sử của Cộng đồng CGVN Hải ngoại, cũng như của cộng đồng người Việt tại hải ngoại, tất cả chúng ta muốn diễn tả lòng biết ơn sâu xa của mình đối với Thiên Chúa, cũng như đối với anh em đang cùng đồng hành trên con đường tiến về quê trời. Một khi đã thanh tẩy ký ức (x. Tông sắc Mầu nhiệm Nhập Thể của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, số 11, 29-11-1998) để xoá đi những định kiến và kỷ niệm đau buồn của quá khứ, chúng ta sẽ hiểu được rằng “tất cả đều là ân sủng” của người Cha nhân từ ban cho con cái mình. Đôi mắt chúng ta sẽ trong sáng hơn để nhận ra “mọi người đều là anh em” và nói được cho nhau hai tiếng “cám ơn”. Cũng trong tinh thần đó, trong thánh lễ trọng thể ngày 29-8-1999, tại nhà thờ chính toà Hà Nội, Đức cha Joseph A. Fiorenza, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ, đã chính thức nói lời cám ơn và ca tụng sự đóng góp của cộng đồng Công giáo Việt Nam đối với Giáo hội Hoa Kỳ.
Nhìn vào hiện tại, sau khi sống Năm Thánh 2000, cũng như để bắt đầu thiên niên kỷ mới, cộng đồng Công giáo Việt Nam ý thức hơn về chính mình và nhất là về sứ mạng đặc biệt của mình là rao giảng Tin Mừng của Đức Giêsu Kitô cho các dân tộc (Ad Gentes). Nhìn vào cách thức hình thành và phát triển của các cộng đoàn CGVN ở nước ngoài, người ta thấy nhiều nơi có tính cách tự phát, hay hoàn toàn tuỳ thuộc vào giáo quyền địa phương. Theo Giáo luật, Cộng đồng Công giáo Việt Nam Hải ngoại không trực tiếp thuộc về Giáo hội Việt Nam và không do Hội đồng Giám mục cai quản như các giáo phận trong nước. Nhưng về mặt huyết thống và tình cảm dân tộc, nhất là theo truyền thống dân tộc và đạo lý Á Đông, người mẹ Giáo hội Việt Nam vẫn có trách nhiệm săn sóc mọi con cái mình, cũng như người CGVN ở nước ngoài vẫn tha thiết với quê hương và chân thành đóng góp những gì mình có cho Giáo hội Mẹ như những người con đi xa.
Để đáp ứng tình cảm tốt đẹp này, cũng như để sự đóng góp có hiệu quả, thiết thực, một số cộng đoàn CGVN hải ngoại ước mong Hội đồng Giám mục Việt Nam thành lập một Uỷ ban Đặc trách Công giáo Việt Nam Hải ngoại. Uỷ ban này sẽ phối hợp với các uỷ ban khác của Hội đồng, cũng như với Văn phòng Phối kết Mục vụ Hải ngoại tại Roma trong mọi lĩnh vực liên quan: mục vụ, huấn luyện, truyền giáo, bác ái, văn hoá,… Với con số 550.000 tín hữu, hơn 1.000 linh mục, hàng ngàn tu sĩ nam nữ - các con số tương đương với những giáo phận lớn nhất tại Việt Nam - Cộng đồng này rất đáng được Hội đồng Giám mục Việt Nam quan tâm nhiều hơn. Thêm vào đó, Nhà nước Việt Nam cũng đang thực hiện chương trình xuất khẩu lao động đến nhiều quốc gia trên thế giới. Hàng trăm ngàn người đang và sẽ đến làm việc tại nơi đất khách quê người, trong đó không ít người là tín hữu Công giáo. Nếu Uỷ ban đặc trách này có những kế hoạch và chương trình hành động thiết thực thì sẽ tận dụng và phát huy mọi nguồn nhân lực, các phương tiện vật chất cũng như tinh thần, để giúp Cộng đồng Việt Nam Hải ngoại làm giàu đẹp cho đất nước và Giáo hội địa phương của cả hai bên.
Cuối cùng, hướng về tương lai, chúng tôi tin rằng, nếu Thiên Chúa vì tình yêu vô biên đã trao cho dân tộc Việt Nam một sứ mạng đặc biệt trong chương trình cứu độ của Người, chắc chắn Người sẽ ban dồi dào ân sủng để chúng ta hoàn thành sứ mạng ấy. Vì thế, chúng ta tin tưởng và hy vọng vào một tương lai huy hoàng của dân tộc và Giáo hội, trong đó những người con Việt ở rải rác khắp nơi trên thế giới, bằng đời sống tích cực học hỏi, làm việc hăng say và yêu thương chân thành, sẽ thật sự là những nắm men Tin Mừng làm dậy lên nền văn minh tình thương và sự sống cho toàn thể nhân loại. Rồi một ngày nào đó, đại gia đình Việt Nam, với 50 con theo cha xuống biển thành rồng và 50 con theo mẹ lên núi thành tiên, sẽ vui mừng tụ họp về nhà Cha Trên Trời trong ngày hội lớn của Quê Hương Thiên Quốc. Lúc ấy, chúng ta “sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (x. Kh 21,3).
Ô. Antôn ĐỖ HỮU NGHIÊM
Lm. Antôn NGUYỄN NGỌC SƠN
Lm. Gioakim TRẦN QUÝ THIỆN
(Tổng hợp từ các bản báo cáo của các cộng đoàn gửi về)