30. Th. MARCELLUS I (27-5-308 - *16-1-309) sinh tại Roma. Ngài lên ngôi giáo hoàng sau thời gian trống toà 4 năm. Ngài phải giải quyết khó khăn là tha thứ cho những kẻ bội giáo trong thời kỳ bách hại. Ngài quy định công đồng chỉ được triệu tập khi có lệnh của giáo hoàng.
31. Th. EUSEBIUS (18-4-309 - *17-8-309) sinh tại Cassano (gốc Hy Lạp). Trong thời ngài, các cuộc tranh luận về những kẻ bội giáo lại tiếp tục, đưa Giáo Hội gần đến chỗ chia rẽ. Ngài đã thành công trong việc dung hoà giữa kỷ luật và tha thứ. Ngài chịu tử đạo đau đớn tại Sicili.
32. Th. MILTIADES hay Melchiadus (2-7-311 - 11-1-314) sinh tại châu Phi. Dưới triều đại ngài, hoàng đế Constantinus, sau khi được thị kiến “Cờ hiệu chiến thắng”, đã công bố tha đạo (chiếu chỉ Milan năm 313) cho các tín hữu Kitô giáo. Bánh thánh có từ thời kỳ này. Ngài cho xây dựng Đền thờ Thánh Joannes Lateranus.
33. Th. SYLVESTER I (31-1-314 - 31-12-335) sinh tại Roma. Ngài là vị giáo hoàng đầu tiên đội mũ ba tầng. Ngài chủ toạ Công đồng Chung đầu tiên ở Nicaea năm 325, trong đó Kinh Tin Kính được công bố. Ngài ấn định Chúa Nhật là ngày nghỉ việc dành để tưởng niệm Chúa Phục Sinh. Ngài đã cho đặt mão gai có đinh sắt trên tượng chịu nạn.
34. Th. MARCUS (18-1-336 - 7-10-336) sinh tại Roma. Ngài đã ra chỉ thị giáo hoàng nên được Giám mục Ostia thánh hiến. Ngài đã thiết lập nghi thức trao dây Pallium vẫn còn được dùng tới ngày nay. Sợi dây được làm bằng len của con chiên đã được làm phép trước và được trang trí thêm những thánh giá màu đen. Lịch những ngày lễ tôn giáo đầu tiên đã xuất hiện trong thời ngài.
35. Th. JULIUS I (6-2-337 - 12-4-352) sinh tại Roma. Ngài đã đề nghị Giáo hội Đông Phương mừng lễ Giáng Sinh 25-12 thay vì mừng chung vào lễ Hiển Linh 6-1. Ngài được coi là vị sáng lập Văn khố Toà Thánh từ khi ngài truyền phải lưu giữ tất cả các công văn chính thức.
36. LIBERIUS (17-5-352 - 24-9-366) sinh tại Roma. Những cuộc tranh luận chống lạc giáo Arius tái diễn khiến nảy sinh việc bầu chọn giáo hoàng giả Felix II. Ngài đã đặt móng xây đền thờ Đức Bà Cả, để ghi dấu địa điểm sau trận tuyết rơi ngày 15-8. (FELIX II, người Roma, 355 - 22-11-365).
37. Th. DAMASUS I (1-10-366 - 11-12-384) sinh tại Tây Ban Nha. Ngài là một giáo hoàng uyên bác. Ngài đã ban phép cho các ca đoàn do Thánh Ambrosius sáng lập, luân phiên hát Thánh Vịnh. Ngài giới thiệu cách dùng từ Do Thái “Alleluia” và tìm được bản dịch Thánh Kinh bằng tiếng Do Thái. URSINUS 366 - 367).
38. Th. SIRICUS (15, 22 hoặc 29-12-384 - 26-11-399) sinh tại Roma. Ngài là người đầu tiên sau Thánh Phêrô dùng tước hiệu “Đức Thánh Cha” (Papa) từ tiếng Hy Lạp. Đến nay từ này vẫn còn được công nhận, là từ ghép bởi những chữ đầu của thành ngữ: Petri Apostoli Potestatem Accipiens (người nhận quyền của Tông Đồ Phêrô). Ngài chủ trương linh mục cần phải sống đời độc thân.
39. Th. ANASTASIUS I (27-11-399 - 19-12-401) sinh tại Roma. Ngài đã giải quyết cuộc ly giáo giữa Roma và Giáo hội Antioch, mạnh mẽ chống lại những người theo bè rối thực hành vô luân; họ chủ trương thiên tính cũng ẩn tàng trong những đồ vật. Ngài chỉ thị các linh mục nên đứng trong khi đọc Tin Mừng.