Giuseppe Ungaretti, một nhà thơ người Ý, đã thể hiện tâm trạng của những người lính trong chiến hào hồi chiến tranh thế giới lần thứ nhất bằng một bài thơ vỏn vẹn chỉ có 10 chữ.
Chúng ta như
Những chiếc lá
Trên cây
Mùa thu.
Tại thời điểm này trong cuộc sống của chúng ta, toàn thể nhân loại đang trải qua cùng cái cảm giác bấp bênh và bất định do đại dịch virus corona gây ra.
“Như Thánh vương Grêgôriô đã viết: ‘Chúa đôi khi hướng dẫn chúng ta bằng lời nói, và đôi khi Ngài chỉ đường cho chúng ta bằng các sự kiện.’ Trong năm được đánh dấu bằng ‘sự kiện’ virus corona choáng ngợp và kinh hoàng này, chúng ta hãy cố gắng rút ra từ đó giáo huấn cho cuộc sống cá nhân và tinh thần của riêng mình. Chúng ta chỉ có thể chia sẻ những suy tư này giữa những tín hữu, vì sẽ hơi thiếu khôn ngoan nếu đề xuất những suy tư ấy với tất cả mọi người mà không có sự phân biệt, vì làm thế sẽ làm tăng thêm sự bất an đối với đức tin vào Chúa mà đại dịch gây ra ở một số người.
Những chân lý vĩnh cửu mà chúng ta muốn tập trung vào trong những suy tư của mình là: Thứ nhất, chúng ta chỉ là người phàm, và ‘chúng ta không có thành trì bền vững trên trái đất này’ (Dt 13,14); thứ hai, cuộc sống đó không kết thúc bằng cái chết, bởi vì cuộc sống vĩnh cửu đang chờ đợi chúng ta; Thứ ba, chúng ta không cô đơn đối diện với những đợt sóng trên con thuyền nhỏ hành tinh chúng ta vì ‘Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta’ (Ga 1,14). Chân lý đầu tiên trong ba chân lý này là đối tượng của kinh nghiệm, hai chân lý còn lại thuộc về niềm tin và hy vọng.
“Memento mori!” – “Hãy nhớ rằng bạn sẽ chết!”
Chúng ta sẽ bắt đầu bằng cách suy ngẫm về câu đầu tiên trong số những ‘châm ngôn vĩnh cửu’, là cái chết. “Memento mori!” (Hãy nhớ rằng bạn sẽ chết!). Các tu sĩ Dòng Xitô Nhặt Phép đã chọn những từ này làm phương châm cho dòng của họ và họ viết nó ở khắp mọi nơi trong tủ quần áo của họ.
Bạn có thể nói về cái chết theo hai cách khác nhau: dưới ánh sáng của việc loan báo Tin Mừng hoặc dưới ánh sáng của trí tuệ. Cách thứ nhất bao gồm việc công bố rằng Chúa Kitô đã chiến thắng sự chết; rằng nó không còn là một bức tường mà mọi thứ phải đâm vào, nhưng nó là một cây cầu dẫn đến cuộc sống vĩnh cửu. Trong khi đó, cách thứ hai, liên quan đến trí tuệ hay hiện sinh bao gồm việc phản ánh thực tại của cái chết là điều con người có thể tiếp cận được, để từ đó rút ra những bài học ngõ hầu sống một cuộc sống tốt đẹp. Chính từ góc độ này, chúng ta muốn bắt đầu các suy tư của mình hôm nay.
Cách hiện sinh là cách tiếp cận cái chết trong Cựu Ước và đặc biệt là trong các sách Khôn ngoan: ‘Xin dạy chúng con biết đếm ngày tháng của mình, để chúng con có được sự khôn ngoan trong lòng’ (Tv 90,12), như tác giả Thánh vịnh cầu xin Chúa. Cách nhìn về cái chết này không chỉ giới hạn trong Cựu Ước, nhưng còn được tiếp tục trong Tin Mừng của Chúa Kitô. Chúng ta hãy nhớ lời cảnh báo của Người: ‘Anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào’ (Mt 25,13), câu kết trong dụ ngôn người giàu có lo toan xây các kho lẫm lớn hơn cho mùa thu hoạch là: ‘Đồ ngốc! Nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng ngươi, thì những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai? (Lc 12,20). Và một lần nữa, Chúa Giêsu nói: ‘Nếu người ta được cả thế giới mà phải thiệt mất mạng sống, thì nào có lợi gì? Hoặc người ta sẽ lấy gì mà đổi mạng sống mình?’ (x. Mt 16,26).
Truyền thống của Giáo hội đã coi giáo huấn này trở thành giáo huấn của chính mình. Các Giáo phụ Sa mạc trân trọng ý nghĩ về cái chết đến nỗi họ đã biến nó thành một thực hành thường xuyên và canh tân nó bằng bất cứ cách nào cần thiết. Một trong số các vị, là người đánh sợi len để kiếm sống, đã có thói quen thỉnh thoảng lại đánh rơi trục quay và ‘ngẫm nghĩ về cái chết trước mắt mình trước khi nhặt lại’. Trong tác phẩm Bắt chước Chúa Kitô, chúng ta tìm thấy lời khuyên sau đây: ‘Vào buổi sáng, hãy giả định rằng bạn sẽ không sống được đến buổi tối. Khi đã sống được đến buổi tối, đừng nên trông cậy sẽ có sáng hôm sau.’ (I, 23). Thánh Anphongsô Maria de Liguori đã viết luận thuyết Chuẩn bị cho cái chết, trong nhiều thế kỷ là một tác phẩm kinh điển của linh đạo Công giáo.
Cách nói khôn ngoan này về cái chết có thể được tìm thấy trong mọi nền văn hoá, không chỉ trong Kinh Thánh và trong Kitô giáo. Phiên bản thế tục hóa của nó cũng có mặt trong tư tưởng hiện đại và thật đáng để nhắc đến những kết luận được rút ra bởi hai nhà tư tưởng có ảnh hưởng vẫn còn mạnh mẽ trong nền văn hoá của chúng ta.
Nhà tư tưởng hiện đại đầu tiên được đề cập là Jean-Paul Sartre. Ông đã lật ngược mối quan hệ cổ điển giữa bản chất và hiện hữu, cho rằng hiện hữu có trước và thắng thế trên bản chất. Nói một cách đơn giản, điều này có nghĩa là phủ nhận trật tự hay quy mô của các giá trị khách quan - Thiên Chúa, những điều tốt đẹp, các giá trị, quy luật tự nhiên - là những gì có trước mọi thứ khác và con người phải phụ thuộc vào, nhưng cho rằng mọi thứ phải bắt đầu từ sự hiện hữu và tự do cá nhân của chính người ấy. Mỗi người phải tự quyết định và hoàn thành số phận của mình, giống như một dòng sông tự chảy và tự đào sâu đáy sông của chính nó. Kế hoạch của cuộc đời không được viết ra ở bất cứ đâu, nhưng nó được quyết định bởi sự lựa chọn của chính mỗi người.
Cách hiểu như vậy về sự hiện hữu hoàn toàn bỏ qua cái chết như một sự thật và do đó nó bị bác bỏ bởi chính thực tại của sự hiện hữu mà nó muốn khẳng định. Con người có thể lên kế hoạch gì nếu họ không biết cũng như không thể kiểm soát được ngày mai họ có còn sống hay không? Nỗ lực của Sartre tương tự như nỗ lực của một kẻ phạm tội dành toàn bộ thời gian của mình để lập kế hoạch cho các biện pháp tốt nhất cần tuân theo để di chuyển từ bức tường này sang bức tường khác của phòng giam.
Hợp lý hơn về điểm này là suy nghĩ của một triết gia khác, Martin Heidegger, người bắt đầu từ những tiền đề tương tự và hoạt động trong cùng bối cảnh của chủ nghĩa hiện sinh. Bằng cách định nghĩa con người là “sinh mệnh dành cho cái chết”, anh ta không biến cái chết thành một tai nạn chấm dứt sự sống, mà trở thành bản chất của cuộc sống, nghĩa là nó được tạo ra từ cái gì. Con người không thể sống mà không đốt cháy cuộc sống và làm cho nó ngắn lại. Mỗi phút trôi qua đều được lấy đi từ sự sống và trao cho cái chết, giống như khi chúng ta lái xe dọc theo một con đường, chúng ta thấy những ngôi nhà và cây cối nhanh chóng biến mất sau lưng chúng ta. Sống cho cái chết có nghĩa là chết không chỉ là sự kết thúc, như một chung cuộc; nhưng là sự kết thúc, hiểu theo nghĩa đó là mục tiêu của cuộc sống. Người ta sinh ra để mà chết chứ không phải vì bất cứ điều gì khác.
Triết gia đặt câu hỏi: Vậy thì đâu là ‘điều cốt lõi - điều chắc chắn và tối thượng’ cho một hiện sinh ‘chân thực’, mà con người được lương tâm kêu gọi, và đóng vai trò như nền tảng cho sự hiện hữu của họ? Câu trả lời: Đó là sự hư vô của nó! Tất cả những khả năng của con người thực ra đều là những điều “không thể được”. Bất kỳ nỗ lực nào để lập kế hoạch cho bản thân và nâng cao bản thân đều là một bước nhảy bắt đầu từ hư vô và kết thúc trong hư vô. Tất cả những gì chúng ta có thể làm là cần phải có một đức tính tốt, đó là yêu mến Định Mệnh của mình. Đây là một phiên bản hiện đại từ thuyết ‘Amor Fati’, nghĩa là ‘Yêu mến Định mệnh’, của những người theo trường phái Khắc kỷ!
Thánh Augustinô đã đoán trước được cả nhận định này trong tư tưởng hiện đại về cái chết, nhưng ngài đã rút ra một kết luận hoàn toàn khác với nó. Thánh nhân không kết thúc trong chủ nghĩa hư vô, nhưng vươn đến niềm tin vào cuộc sống vĩnh cửu.
Ngài viết rằng khi con người chào đời, nhiều giả thuyết được đưa ra: có lẽ họ sẽ đẹp, có lẽ họ sẽ xấu; có lẽ họ sẽ giàu, có lẽ họ sẽ nghèo; có lẽ họ sẽ sống lâu, có lẽ họ sẽ có một cuộc sống ngắn ngủi. Nhưng không ai nói rằng: có lẽ họ sẽ chết hoặc có lẽ họ sẽ không chết. Đây là điều duy nhất chắc chắn về cuộc sống. Khi một người bị chứng cổ chướng, là căn bệnh nan y vào thời đó, ngày nay cũng có những bệnh nan y khác, chúng ta nói: “Tội nghiệp quá, người đó phải chết; họ tới số rồi, vô phương cứu chữa.” Nhưng liệu chúng ta có nên nói như thế không với những hài nhi sắp chào đời? “Thật tội nghiệp, đứa bé phải chết, vô phương cứu chữa, thế nào nó cũng phải chết!” Cuộc sống dài hơn hoặc ngắn hơn thì có khác biệt gì? Cái chết là một căn bệnh hiểm nghèo mà chúng ta mắc phải khi chúng ta được sinh ra.
Dante Alighieri đã tóm tắt toàn bộ quan điểm này của Thánh Augustinô trong một câu thơ duy nhất, khi ông định nghĩa cuộc sống con người trên trái đất trong câu: “Cuộc sống là một cuộc chạy đua với cái chết.”
Tại trường học của ‘Chị Chết’
Với sự tiến bộ nhanh chóng của công nghệ và các thành tựu khoa học, chúng ta có nguy cơ giống như người đàn ông trong dụ ngôn này, là người tự nói với chính mình: ‘Ta sẽ nhủ lòng: hồn ta hỡi, mình bây giờ ê hề của cải, dư xài nhiều năm. Thôi, cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã!” (Lc 12,19). Tai hoạ hiện nay ập đến nhắc nhở chúng ta rằng ý chí con người chẳng ‘hoạch định’ hay xác định tương lai được bao nhiêu.
Sau Chúa Giêsu, quan điểm khôn ngoan về cái chết đóng một vai trò tương tự trong lề luật, chỉ sau quan điểm về ân sủng. Lề luật cũng được sử dụng để bảo vệ tình yêu và ân sủng. Lề luật - như đã viết - được ban cho những tội nhân (x. 1Tm 1,9) và chúng ta vẫn là những kẻ có tội, nghĩa là phải chịu sự dụ dỗ của thế gian và của những thứ hữu hình, chúng ta luôn bị cám dỗ để ‘rập theo đời này’ (x. Rm 12,2). Không có điểm thuận lợi nào tốt hơn là cái chết để chúng ta nhìn thế giới, nhìn thấy bản thân và mọi sự kiện, trong chính sự thật của chúng. Mọi thứ sau đó diễn ra đúng chỗ của nó.
Thế giới thường xuất hiện như một bó chặt chẽ những bất công và hỗn loạn, đến mức mọi thứ dường như xảy ra một cách ngẫu nhiên mà không có bất kỳ sự nhất quán hay kế hoạch nào. Đó là một loại tranh không có hình dạng, trong đó tất cả các yếu tố và màu sắc dường như được đặt ngẫu nhiên, giống như trong một số bức tranh hiện đại. Bạn thường chứng kiến những chiến thắng của kẻ gian ác trong khi những người vô tội lại bị trừng phạt. Tuy nhiên, để ngăn chặn niềm tin rằng có bất cứ điều gì đó cố định và bất biến trên thế giới này, triết gia Bossuet nhận xét rằng đôi khi bạn thấy điều ngược lại: người vô tội được đăng quang và kẻ bất công bị treo trên giá treo cổ!
Có một điểm thuận lợi để nhìn vào bức tranh khổng lồ này và hiểu được ý nghĩa của nó không? Thưa, có: đó là “sự kết thúc”, tức là cái chết, ngay sau đó là sự phán xét của Thiên Chúa (x. Dt 9,27). Nhìn từ đó, mọi thứ đều đạt đúng giá trị của nó. Cái chết là dấu chấm hết cho mọi khác biệt và mọi hình thức bất công hiện hữu giữa con người. Cái chết, như diễn viên hài người Ý Totò thường nói, giống như một ‘độ sôi’, có khả năng san bằng mọi đặc quyền.
Nhìn cuộc sống từ vị trí thuận lợi của cái chết giúp ích rất nhiều để sống tốt. Bạn đang đau khổ bởi những vấn đề và những khó khăn? Hãy tiến về phía trước, đặt mình vào đúng chỗ: hãy nhìn những điều này từ giường bệnh của bạn. Bạn muốn cư xử như thế nào? Bạn coi những thứ này quan trọng đến mức nào? Bạn có gặp vấn đề gì với ai đó không? Hãy nhìn mọi thứ từ giường bệnh của bạn. Bạn muốn làm gì khi đó: thắng cho bằng được hay chấp nhận sự sỉ nhục? Muốn chinh phục hay muốn được tha thứ?
Ý nghĩ về cái chết ngăn cản chúng ta quá tha thiết với sự vật, và đừng đặt lòng mình vào những thứ trên trần gian này đến mức quên mất rằng ‘chúng ta không có thành trì bền vững trên trái đất này’ (Dt 13,14). Như một Thánh vịnh đã nói, ‘vì khi chết, nó đâu mang được cả, kiếp vinh hoa chẳng theo xuống mộ phần’ (Tv 49,18). Trong thời cổ đại, các vị vua thường được chôn cất với đồ trang sức của họ. Điều này tất nhiên đã khuyến khích hành vi xâm phạm lăng mộ để lấy trộm những kho báu đó. Để ngăn ngừa kẻ trộm, người ta khắc một dòng chữ trên nhiều ngôi mộ rằg “Chỉ có tôi ở đây”. Dòng chữ đó rất đúng, cho dù trên thực tế, ngôi mộ đã chôn giấu những đồ trang sức đó! “Lúc chết, chẳng ai mang theo được bất cứ thứ gì.”
“Hãy tỉnh thức!”
Chị Chết thực sự là một người chị tốt và một giáo viên tốt. Cô ấy dạy chúng ta nhiều điều nếu như chúng ta nhẹ nhàng lắng nghe. Giáo hội không ngại gửi chúng ta đến trường của cô ấy. Trong phụng vụ Thứ Tư Lễ Tro có một điệp ca nghe rất mạnh mẽ, thậm chí còn mạnh hơn phiên bản gốc Latinh của nó: “Emendemus in melius quae ignoranter peccavimus; ne subito praeoccupati die mortis, quaeramus spatium poenitentiae, et invenire non possimus” (Nếu ngày chết bất ngờ ập đến, liệu chúng ta còn sửa đổi được chăng những gì mình đã phạm bởi ngu muội, liệu chúng ta có còn tìm được thời gian mà sám hối hay chăng). Một ngày, một giờ duy nhất, một lời xưng tội tốt: những thứ này sẽ trông khác đến thế nào vào thời điểm đó! Chúng ta khao khát những điều đó biết bao hơn là một cuộc sống lâu dài, giàu có và khoẻ mạnh!
Tôi cũng đang nghĩ đến một bối cảnh khác ngoài lĩnh vực khổ hạnh, trong đó chúng ta khẩn thiết cần đến Chị Chết như một người thầy: đó là lĩnh vực truyền giáo. Ý nghĩ về cái chết gần như là vũ khí duy nhất còn lại để rũ bỏ cơn buồn ngủ khỏi xã hội xa hoa của chúng ta, đang có cùng một trải nghiệm giống hệt như những người Do Thái vừa được giải thoát khỏi Ai Cập: ‘Giacóp ăn uống no thoả, Giơsurun mập ra... họ đã từ bỏ Thiên Chúa, Đấng đã tác tạo ra họ, và khinh miệt Núi Đá độ trì họ.’ (Đnl 32,15).
Vào một thời điểm tế nhị trong lịch sử của “dân được chọn”, Thiên Chúa đã nói với Tiên tri Isaia: ‘Hãy hô lên! Hãy hô lên!’ Vị tiên tri trả lời: ‘Tôi phải hô lên điều gì?’ Và Thiên Chúa phán: “Người phàm nào cũng đều là cỏ, mọi vẻ đẹp của nó như hoa đồng nội. Cỏ héo, hoa tàn khi Thiên Chúa thổi qua.” (Is 40,6-7). Tôi tin rằng ngày nay Thiên Chúa cũng đưa ra lời chỉ dạy tương tự cho các vị tiên tri của Ngài và Ngài làm như vậy vì Ngài yêu thương con cái mình và không muốn thấy con người ‘như đoàn vật nhốt trong âm phủ, chính tử thần canh giữ chăn nuôi’ (x. Tv 49,15).
Câu hỏi về ý nghĩa của cái chết đóng một vai trò quan trọng trong việc Phúc Âm hoá ban đầu ở Âu châu và chúng ta không nên loại trừ khả năng nó có thể đóng một vai trò tương tự trong nỗ lực tân Phúc Âm hoá hiện nay. Thực sự có một điều gì đó không hề thay đổi kể từ đó và nó chính là điều này: con người phải chết. Bậc đáng kính Bede đã kể lại việc Kitô giáo thâm nhập được vào miền bắc nước Anh, bằng cách vượt qua sự phản kháng của ngoại giáo. Nhà vua triệu tập đại hội đồng vương quốc để quyết định về vấn đề có cho phép các nhà truyền giáo Kitô vào hay không. Có những quan điểm trái ngược nhau về điều này, cho đến khi một trong những quan chức của nhà vua nói thế này:
Thưa Hoàng thượng, cuộc sống của con người trên trái đất có thể được mô tả như sau. Hãy tưởng tượng đó là mùa đông. Bệ hạ đang ngồi ăn tối với các công tước và các trợ lý của mình. Giữa cung điện có một ngọn lửa làm nóng căn phòng, trong khi bên ngoài có một cơn bão, mưa và tuyết đang hoành hành. Một con chim sẻ đột nhiên đến cung điện của bệ hạ; nó đi vào từ một cửa sổ đang mở và bay nhanh về cái cửa sổ đối diện. Khi vào bên trong, nó được che chở khỏi cái lạnh giá của mùa đông, nhưng một lúc sau, kìa, nó bị đưa trở lại bóng tối mà nó đến và biến mất khỏi tầm mắt. Cuộc sống của chúng ta chỉ có vậy thôi! Chúng ta không biết điều gì đến trước hay sau đó. Nếu lời dạy này có thể cho chúng ta biết điều gì đó chắc chắn hơn về cuộc sống chúng ta, hạ thần nghĩ rằng chúng ta nên lắng nghe.
Câu hỏi do chính cái chết đặt ra, như một vết thương mở trong trái tim con người, đã mở đường cho Tin Mừng. Một nhà tâm lý học nổi tiếng đã viết chống lại Freud rằng từ chối cái chết, chứ không phải bản năng tình dục, là gốc rễ của mọi hành động của con người.
Ngợi khen Ngài, Lạy Chúa của tôi, qua Chị Chết thể xác của chúng ta
Như thế, chúng ta không phục hồi nỗi sợ hãi về cái chết. Chúa Giêsu đã đến để ‘giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời phải chịu làm nô lệ’ (Dt 2,15). Ngài đến để giải thoát chúng ta khỏi nỗi sợ hãi về cái chết chứ không phải để gia tăng nó. Tuy nhiên, một người cần phải trải qua nỗi sợ hãi đó để được giải thoát khỏi nó. Chúa Giêsu đến để dạy về nỗi sợ hãi cái chết đời đời cho những ai không biết gì khác hơn là nỗi sợ hãi về cái chết thể xác.
Chết đời đời! Trong Sách Khải huyền hay sách về Cánh Chung, nó được gọi là ‘cái chết thứ hai’ (Kh 20,6). Nó là cái duy nhất thực sự xứng đáng với tên gọi là cái chết, bởi vì nó không phải là một cuộc vượt qua, không phải mầu nhiệm Vượt Qua của Lễ Phục Sinh, nhưng là một nhà ga cuối cùng thật khủng khiếp. Để cứu những người nam nữ khỏi số phận bi thảm này, chúng ta phải quay lại rao giảng về cái chết. Không ai hơn Thánh Phanxicô Assisi đã từng biết đến khuôn mặt Vượt Qua mới của cái chết theo Kitô giáo. Cái chết của chính ngài thực sự là một sự chuyển tiếp Vượt Qua, một “quá cảnh”, như được cử hành trong phụng vụ lễ Thánh Phanxicô. Khi cảm thấy cận kề với cái chết, Người Nghèo Đơn Sơ này đã từng kêu lên: 'Chào mừng, Chị Chết của tôi!' Tuy nhiên, trong Bài Ca Mặt Trời hay Bài Ca Tạo Vật, cùng với những lời nói rất ngọt ngào về cái chết, thánh nhân đã đề cập đến một vài điều đáng sợ nhất, đó là:
Ngợi khen Ngài, Lạy Chúa của tôi, qua Chị Chết thể xác của chúng ta
Không một sinh vật nào có thể thoát khỏi:
Thật khủng khiếp cho những ai chết trong tội trọng!
Thật may mắn biết bao khi những ai chết trong thánh ý cực trọng của Người
Vì cái chết thứ hai không thể làm hại họ.
“Thật khủng khiếp cho những ai chết trong tội trọng!” Thánh Phaolô nói: ‘Tử thần có độc là vì tội lỗi.’ (1Cr 15,56). Điều khiến cái chết có sức mạnh đáng sợ nhất ám ảnh một tín hữu và khiến người đó sợ hãi chính là tội lỗi. Nếu một người sống trong tội trọng, sự chết có nọc độc của nó, có chất độc của nó, giống như trước khi Chúa Kitô xuống thế, và do đó nó gây thương tích, giết chết và ném vào Âm phủ. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng: Đừng sợ cái chết thể xác và sau đó không thể làm gì hơn. Hãy sợ cái chết mà sau khi giết chết thân xác chúng ta, nó còn có sức mạnh ném chúng ta vào Âm phủ (x. Lc 12,4-5). Khi tránh xa tội lỗi bạn cũng sẽ loại bỏ được vết nhói tồi tệ nhất của nó là cái chết!
Với việc thiết lập Bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu đã vô hiệu hoá cái chết của chính mình. Chúng ta cũng có thể làm tương tự. Trên thực tế, Chúa Giêsu đã phát minh ra phương tiện này để khiến chúng ta tham gia vào cái chết của Ngài, để hợp nhất chúng ta với chính Ngài. Theo thuật ngữ của Thánh Alphonsô đệ Liguori, tham dự Bí tích Thánh Thể là cách thức chân thực, chính xác và hiệu quả nhất để ‘chuẩn bị’ cho cái chết,. Trong đó, chúng ta cũng cử hành cái chết của chính mình, và ngày ngày chúng ta dâng cái chết của chúng ta lên Chúa Cha. Trong Bí tích Thánh Thể, chúng ta có thể dâng lên Chúa Cha tiếng ‘amen’, tiếng ‘xin vâng’ của chúng ta đối với những gì đang chờ đợi chúng ta, đối với kiểu chết mà Người muốn dành cho chúng ta. Trong đó, chúng ta viết “di chúc của chúng ta”: chúng ta quyết định chúng ta muốn từ giã cuộc sống của mình cho ai, chúng ta muốn chết cho ai.
Chúng ta đã được sinh ra, để rồi chết, đó là sự thật; nhưng cái chết không chỉ là sự kết thúc, như là một chung cuộc, nhưng còn là sự kết thúc, theo nghĩa là mục tiêu của cuộc sống. Tuy nhiên, điều này không giống như một sự lên án, như nhà triết học nói trên đã tuyên bố, trái lại dường như là một đặc ân. ‘Như Thánh Grêgôriô thành Nyssa đã nói - Chúa Kitô được sinh ra để chết’, nghĩa là để có thể hiến mạng sống của mình làm giá cứu chuộc cho tất cả mọi người. Chúng ta cũng đã nhận được cuộc sống với những gì là độc đáo, có giá trị, xứng đáng với Thiên Chúa, để có thể lần lượt trao lại cho Ngài như một món quà và một của lễ hy sinh. Người ta còn có thể dùng cuộc sống mình cách nào hay hơn là trao tặng nó, vì tình yêu, cho Đấng Tạo Hoá, là Đấng vì tình yêu, đã ban nó cho chúng ta? Từ những lời truyền phép của vị chủ tế trên bánh và rượu trong Thánh lễ, chúng ta có thể sửa lại để nói: ‘Nhờ lòng nhân từ của Chúa, chúng con có cuộc sống này để hiến dâng. Chúng con dâng lên Chúa. Xin cho cuộc sống của chúng con trở thành của lễ sống động, thánh thiện và đẹp lòng Chúa.’ (x. Rm 12,1).
Với tất cả những điều này, chúng ta đã không loại bỏ được sự nhức nhối khi nghĩ về cái chết và không loại bỏ được khả năng nó gây ra đau khổ cho chúng ta mà Chúa Giêsu cũng muốn trải nghiệm tại vườn Giệtsimani. Nhưng ít ra chúng ta cũng sẵn sàng hơn để chấp nhận sự bảo đảm đến từ đức tin và điều mà chúng ta công bố trong Kinh Tiền Tụng Thánh lễ cầu cho tín hữu qua đời:
Nhờ lòng trung tín của Chúa, đối với các tín hữu Chúa, sự sống thay đổi chứ không mất đi, và khi nơi nương náu ở trần gian bị hủy diệt tiêu tan, thì lại được một chỗ ở vĩnh viễn trên trời.
Nếu Chúa muốn, chúng ta sẽ nói về sự cư ngụ vĩnh cửu trên thiên đàng này, trong bài suy niệm tiếp theo.
------------------------
1. Các trích dẫn Kinh Thánh được trích từ Thánh Kinh của Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ.
2. Các bài giảng về Phúc Âm, XVII.
3. Apofthegms of ms. Coislin 126, n. 58.
4. Xem. M. Heidegger, Being and Time, § 51.
5. Thượng dẫn. II, c. 2, § 58.
6. Xem Thánh Augustinô, Sermo Guelf. 12,3.
7. Purgatorio, XXXIII, 54 (Mandelbaum’s English translation, 1982).
8. Xem Ecclesiastical History, II,13.
9.E. Becker, Denial of Death, New York: Free Press. 1973.
10. Celano, Vita secunda, CLXIII, 217.
11. St Gregory of Nyssa, hay. cat., 32 (PG 45, 80).