Ấn bản thứ hai
Nguyên bản: COMMUNICATING IN MINISTRY AND
Tác giả: FRANZ-JOSEF EILERS, SVD
***
PHẦN I
CÁC NHU CẦU VÀ ĐIỀU KIỆN CHUNG
CỦA TRUYỀN THÔNG MỤC VỤ VÀ TRUYỀN GIÁO
5. Những cống hiến của Hội Thánh cho Truyền thông trong Xã hội
Đạo đức Truyền thông
Đạo đức trong truyền thông là một lĩnh vực vượt xa những quan tâm của Hội Thánh. Nhưng đức tin Kitô giáo có thể có một cống hiến đặc biệt bằng cách đưa ra các nguyên tắc cơ bản, có thể ảnh hưởng cả đến các suy tư khác của xã hội.
Từ cuối những năm 70 (của tk 20), có những nghiên cứu đặc biệt về Đạo đức học trong Truyền thông và ngày càng có nhiều tác phẩm được xuất bản về lĩnh vực này. Một nghiên cứu về đạo đức báo chí của Trung tâm Hastings ở New York năm 1977/79 cho thấy chỉ có 15 cuốn sách viết về đề tài này được xuất bản từ 1924 đến 1979, và có khoảng 68 giáo trình độc lập về đề tài này tại các tổ chức giáo dục Hoa Kỳ. Hai mươi năm sau, 1999, đã có khoảng 100 quyển sách nữa và gần 200 giáo trình độc lập về Đạo đức học trong Truyền thông. Theo một báo cáo được Clifford G. Christians trình bày trước Nhóm quan tâm đến Đạo đức học Truyền thông của Hội Giáo dục về Báo chí và Truyền thông Đại chúng (AEJMC), các vấn đề nòng cốt được bàn đến trong các sách này là: các nguồn tư liệu mật, xâm phạm sự riêng tư, các cám dỗ kinh tế, an ninh quốc phòng và đề tài chiến tranh, tự do báo chí/xét xử công bằng, khủng bố và rối loạn công cộng, các nhóm thiểu số, lừa đảo và sự chính xác. Một số nghiên cứu này đề cập một cách đặc biệt đến các chiều kích bảo mật và pháp lý, đạo đức học về đại diện như chủ nghĩa phân biệt giới tính và phân biệt chủng tộc. Nhưng chính ông Christians, một trong những nhà nghiên cứu phong phú về lãnh vực này, cũng nhìn nhận rằng “về mặt kỹ thuật và chuyên nghiệp, lĩnh vực truyền thông đang phát triển phức tạp hơn và với một tốc độ nhanh hơn là những phân tích hàn lâm của chúng ta”. Nhưng ông cũng thấy rằng gần đây có một sự phát triển tích cực hơn, đó là Đạo đức học truyền thông đã trở nên ngày càng được nhìn nhận “như là một lĩnh vực nghiên cứu hàn lâm”.
Khi nghiên cứu chuyên đề về Đạo đức học Truyền thông, Cha Ruediger Funiok Dòng Tên (2002, 44) cho rằng mọi đạo đức học truyền thông đều cách này hay cách khác có liên quan tới các câu hỏi cơ bản sau:
1. Ai chịu trách nhiệm?
2. Cái gì là nguyên nhân?
3. Họ chịu trách nhiệm về điều gì?
4. Họ chịu trách nhiệm với ai?
5. Họ phải giải trình cho ai?
6. Tại sao họ phải chịu trách nhiệm (các giá trị, qui tắc, tiêu chuẩn)
Bây giờ sự cống hiến chuyên biệt của Hội Thánh cho mối quan tâm này là gì, vì mối quan tâm này có liên hệ rất chặt chẽ với Truyền thông Mục vụ?
Gerald O’Collins và Edward G. Farrugia mô tả Đạo đức như là “ngành triết học nghiên cứu về các nguyên tắc đạo đức để làm sáng tỏ cái gì là đúng và sai hay con người phải tự do làm gì hay tránh làm gì” (2001,80). Trong lĩnh vực truyền thông, đạo đức học này có thể đặc biệt liên quan tới ba khía cạnh sau:
a) Khía cạnh đạo đức của truyền thông trong xã hội như tự do truyền thông, tự do báo chí hay ngôn luận, các lý do và hậu quả của chúng, cũng như các giới hạn của chúng đối với các quyền con người như quyền riêng tư, bảo vệ trẻ em..., là những điều cũng dễ đưa tới việc nghiên cứu và cắt nghĩa các luật có liên quan.
b) Khía cạnh đạo đức của các chuyên gia truyền thông như các chủ nhân và các nhân viên truyền thông. Đây là lĩnh vực của các bộ luật đạo đức nghề nghiệp, các tập thể tự quản như các Hội đồng Báo chí, các tôn chỉ của ban biên tập và các nguyên tắc về giá trị.
c) Thứ ba là khía cạnh đạo đức đối với giới tiêu thụ truyền thông, những người tiếp nhận các phương tiện truyền thông và việc họ sử dụng một cách có trách nhiệm các khả năng mà truyền thông cung cấp.
Khác với Đạo đức học (Ethics), Thần học Luân lý (Moral Theology) nghiên cứu và dạy người ta biết “người Kitô hữu phải sống như thế nào. Sự suy tư hệ thống này về hành vi của người Kitô hữu được rút ra từ Kinh Thánh (ví dụ, Mười Điều Răn, Bài Giảng Trên Núi, và các lời khuyến dụ của Thánh Phaolô), từ lý do triết học, và từ kinh nghiệm của truyền thống và giáo huấn của Hội Thánh.” (O’Collins 2001,167).
Cống hiến của Hội Thánh cho Đạo đức Truyền thông là việc đem áp dụng một cách đặc biệt các nguyên tắc đạo đức Kitô giáo vào việc sử dụng và tiêu thụ các phương tiện Truyền thông Xã hội.
Có thể triển khai Đạo đức Truyền thông từ những góc cạnh khác nhau, như từ những niềm tin của các tôn giáo khác hay các trường phái triết học hay xã hội học khác. Bob Anderson và Veronica Ross (1998,291; cũng xem 272-297) đã liệt kê 5 lý thuyết sau đây về đạo đức truyền thông:
* Đạo đức học đức hạnh của thuyết trung dung
* Đạo đức học Lão giáo của thuyết vô vi
* Đạo đức học đối thoại của tính hỗ tương
* Đạo đức học chợ tư tưởng của tự do cá nhân và công bằng
* Đạo đức học tường thuật và cộng đồng của sự gắn kết cộng đồng
Khi xét về các cố gắng này, các nguyên tắc đạo đức Kitô giáo có lẽ có thể được áp dụng và tiềm tàng trong đa số các yếu tố trên, ít là với tính chất của các nguyên tắc cơ bản.
Trong một số văn kiện quan trọng của Hội Thánh về truyền thông, có các hướng dẫn cho đạo đức truyền thông như trong Sắc lệnh Inter Mirifica của Vatican II về Truyền thông Xã hội, trong đó các nghị phụ nói: “Để các phương tiện truyền thông được sử dụng đúng đắn, điều thiết yếu là mọi người sử dụng chúng phải biết các nguyên tắc về trật tự đạo đức và trung thành áp dụng chúng vào lĩnh vực này...” (số 4). Hơn nữa, “Điều thiết yếu là mọi người có liên quan phải đào tạo một lương tâm đúng đắn về việc sử dụng các Phương tiện Truyền thông...” (số 5).
Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio (1971), được viết theo yêu cầu của các Nghị phụ Công đồng, kêu gọi chính những người truyền thông “có bổn phận lương tâm phải được huấn luyện thành thạo về nghệ thuật Truyền thông Xã hội” (số 15). Ở một đoạn dưới, Huấn thị nói rằng “đã có một sự suy thoái các chuẩn mực đạo đức trong nhiều lĩnh vực đời sống ngày nay, và đây là lý do khiến mọi người lương thiện phải quan tâm sâu xa. Có thể dễ dàng tìm thấy bằng chứng của sự suy thoái này trong mọi phương tiện truyền thông xã hội. Nhưng không thể đổ hết lỗi cho các phương tiện này. Nhiều người đứng đắn cho rằng các phương tiện này chỉ là sự phản ánh những gì đã hiện hữu trong xã hội rồi...” (số 22).
Tuy nhiên, điều quan trọng hơn là phải coi nguyên tắc cơ bản về đạo đức và luân lý của Communio et Progressio là sự cống hiến dặc biệt của Hội Thánh cho lĩnh vực này, đó là nguyên tắc về phẩm giá con người:
“Bởi vì chính những con người là những chủ thể quyết định phải sử dụng các phương tiện truyền thông như thế nào, nên các nguyên tắc đạo đức chính ở đây là các nguyên tắc dựa trên một sự cắt nghĩa đúng về phẩm giá con người. Và cần nhớ rằng phải coi những con người như là những thành viên của gia đình các con cái của Thiên Chúa. Đồng thời các nguyên tắc này phát xuất từ tính chất cơ bản của truyền thông xã hội và các phẩm chất tự có của phương tiện truyền thông... Những ai muốn thấy các phương tiện truyền thông đóng vai trò tiền định của chúng trong lịch sử Tạo Dựng, trong Nhập Thể và Cứu Chuộc, và muốn xem xét tính chất đạo đức của chúng, những người ấy phải có một sự hiểu biết đầy đủ và đúng về con người. Họ cũng phải có một sự hiểu biết đúng đắn về bản chất thực của truyền thông xã hội và của các công cụ phục vụ nó” (số 14/15).
Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội tại đã ra 4 văn kiện sau đây có ý nghĩa đặc biệt về Đạo đức trong Truyền thông Xã hội:
- Đạo đức trong Truyền thông, xuất bản tháng 6-2000
- Đạo đức trong Quảng cáo, xuất bản tháng 2-1997
- Đạo đức trên Internet, xuất bản tháng 2-2002
- Khiêu dâm và Bạo lực trong các Phương tiện Truyền thông: Một Phản ứng Mục vụ, xuất bản tháng 5-1989.
Đạo đức trong Truyền thông
Bố cục theo chủ đề
I. Nhập đề (1-5)
II. Truyền thông Xã hội phục vụ con người (6-12)
a) Các phương tiện truyền thông phục vụ phẩm giá con người (6)
b) Các lợi ích kinh tế (7)
c) Các lợi ích chính trị (8)
d) Các lợi ích văn hoá (9)
e) Các lợi ích giáo dục (10)
f) Các lợi ích tôn giáo (11)
g) Truyền thông xây dựng và bảo vệ cộng đồng (12)
III. Loại Truyền thông Xã hội vi phạm lợi ích con người (13-19)
a) Các phương tiện truyền thông cản trở cộng đồng loài người (13)
b) Lạm dụng kinh tế (14)
c) Lạm dụng chính trị (15)
d) Xuyên tạc văn hoá (16)
e) Xuyên tạc giáo dục (17)
f) Xuyên tạc tôn giáo (18)
IV. Một số nguyên tắc đạo đức có liên quan (20-26)
a) Nhân phẩm và tương quan giữa con người và cộng đồng (21-22)
b) Tự do phát biểu (23)
c) Tham gia của dân chúng vào các chính sách cộng đồng (24)
d) Các bổn phận của những người tiếp nhận - giáo dục về truyền thông (25)
e) Các loại truyền thông mẫu mực của Hội Thánh (26)
V. Kết luận (28-33)
Eilers 2002, tr. 25
Văn kiện chung về Đạo đức (Đạo đức trong Truyền thông), trong phần nói về “một số nguyên tắc đạo đức liên hệ,” đã lặp lại niềm xác tín và nguyên tắc của Communio et Progressio khi nói rằng “nguyên tắc cơ bản trong đạo đức truyền thông Kitô giáo là: con người và xã hội con người là mục đích và tiêu chuẩn của việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội; truyền thông phải là bởi con người tới con người vì sự phát triển toàn diện của con người” (số 21). Nguyên tắc thứ hai bổ sung cho nguyên tắc thứ nhất: “Lợi ích của những con người không thể được thể hiện tách rời với lợi ích chung của cộng đoàn mà họ thuộc về. Lợi ích chung này phải được hiểu theo nghĩa gộp, nghĩa là tổng số những mục đích chung có giá trị mà các thành viên cộng đồng cùng hợp nhau theo đuổi và sống để phục vụ”. Đây không có nghĩa là đặt một nhóm chống lại một nhóm khác. “Những người truyền thông và những người làm chính sách truyền thông phải phục vụ các nhu cầu và lợi ích thực sự của cả các cá nhân lẫn các tập thể, ở mọi cấp và mọi loại” (số 22). Trong tất cả điều này, phải cho thấy rõ các bổn phận đạo đức của những người truyền thông cũng như những người đón nhận truyền thông (số 25); các bổn phận này cũng phải điều khiển các cơ cấu truyền thông ở mọi cấp (số 24).
Ở phần kết luận, văn kiện một lần nữa xác nhận: “Các điểm đặc biệt mà Hội Thánh cống hiến cho sự thảo luận về các vấn đề này là một nhãn quan về con người và phẩm giá siêu vời của con người với các quyền bất khả xâm phạm và một nhãn quan về cộng đồng con người mà các thành viên kết hợp với nhau bằng sức mạnh của tình liên đới để theo đuổi lợi ích chung của mọi người” (số 30).
Văn kiện về Đạo đức trong Quảng cáo mô tả những cái lợi và hại của việc quảng cáo. Văn kiện coi “các lương tâm được đào luyện tốt và có trách nhiệm của chính các chuyên gia quảng cáo” là những “bảo đảm thiết yếu cho hành vi đạo đức đúng trong công nghệ quảng cáo”: đó là những “lương tâm bén nhậy với bổn phận của họ không chỉ để phục vụ lợi ích của những người uỷ thác và tài trợ công việc của họ, mà còn để tôn trọng và bảo vệ các quyền và lợi ích của các khách hàng và phục vụ công ích” (số 18).
Văn kiện về Đạo đức trên Internet áp dụng cùng những nguyên tắc ấy cho việc sử dụng không gian mạng (‘cyberspace’), ở đó việc truy cập cá nhân và các tin tức mới nhất đến được với mọi người vào bất cứ lúc nào. Một lần nữa văn kiện này liệt kê các khả năng tích cực cũng như vai trò của các phát triển tiêu cực, ví dụ như các website hận thù được trình bày trên mạng.
Văn kiện về Khiêu dâm và Bạo lực được gọi là “một Phản ứng Mục vụ”. Văn kiện định nghĩa khiêu dâm như là “một sự vi phạm quyền tư riêng của thân xác con người trong bản chất là nam và nữ của nó, hạ thấp nhân phẩm và thân xác con người thành một đối tượng vô danh của sự lạm dụng vì mục đích thoả mãn dục vọng” (số 9). Về các hậu quả của khiêu dâm, nó được coi là hạ giá “giới tính, huỷ hoại các mối quan hệ con người, bóc lột cá nhân - đặc biệt các phụ nữ và trẻ em - làm hỏng đời sống hôn nhân và gia đình, khuyến khích hành vi phản xã hội và làm suy yếu nền tảng đạo đức của chính xã hội” (số 10). Dấn mình vào trò khiêu dâm có thể trở thành thói quen và nung nấu “những mối bận tâm thiếu lành mạnh trong trí tưởng tượng và hành động. Nó có thể làm hại sự tăng trưởng đạo đức cá nhân và sự phát triển các mối quan hệ lành mạnh và trưởng thành, đặc biệt trong đời sống hôn nhân và gia đình” (số 14.15). Văn kiện còn trình bày về các nguyên nhân của vấn đề và kêu gọi các thành phần khác nhau của xã hội con người và chính trị phải tuỳ nghi hành động.
Bạo lực được định nghĩa như là “một sự trình bày nhằm lôi cuốn các bản năng hành động đê hèn của con người chống lại phẩm giá con người và vẽ ra bức tranh của một sức mạnh thể lý ghê gớm được thể hiện một cách hung hăng và thường là điên cuồng” (số 9). Thường xuyên tiếp xúc với môi trường bạo lực “có thể gây nguy hại cho trẻ em vì chúng không đủ khả năng phân biệt giữa thực và ảo”. Vì vậy chúng có thể “coi chuyện này như là một hành vi bình thường và được chấp nhận, và chúng sẽ dễ bắt chước” (số 11-12).
Cống hiến đặc biệt của Hội Thánh cho đạo đức truyền thông là giúp đỡ và phục vụ lương tâm của người truyền thông và người tiêu thụ, và ghi khắc nơi họ một niềm xác tín sâu xa vào phẩm giá con người cũng như tầm quan trọng và phẩm giá của cộng đồng con người. Điều này cũng dẫn đến sự cống hiến của Hội Thánh trong hoạt động mục vụ của mình cho xã hội loài người qua việc Đào luyện Truyền thông và Giáo dục Truyền thông.
5.2. Đào luyện Truyền thông và Giáo dục Truyền thông
5.2.1. Đào luyện Truyền thông
Đối với mọi người truyền thông, và đặc biệt đối với người truyền thông mục vụ, học biết cách truyền thông là điều tối quan trọng. Việc này không liên quan trước tiên tới các phương tiện kỹ thuật, mà đúng hơn, nó liên quan nhiều hơn tới con người và người hoạt động mục vụ. Willi Lambert (2000, 28-43) đã chứng minh một cách rất thuyết phục rằng thánh Inhaxiô Loyôla là một nhà truyền thông đích thực như thế nào và ngài đã chia sẻ như thế nào các kinh nghiệm và trực giác của ngài cho ba vị tu sĩ Dòng Tên được ngài cử đi dự Công đồng Trentô năm 1546. Bảy quy luật truyền thông ngài ban cho họ cũng là những qui luật cho bất cứ ai muốn đến với người ta và dấn thân vào lãnh vực truyền thông mục vụ. Trong các lời khuyên của ngài, Thánh Inhaxiô muốn các người đại diện của ngài có thái độ cởi mở và đề cao đối thoại, biết đắn đo suy nghĩ và chú ý không chỉ tới các lời nói mà cả các tình cảm và toàn thể cung cách truyền thông cho người khác; họ phải cố gắng tránh thành kiến nhưng phải biết cách trình bày rõ ràng. Họ phải dành thời gian, quí chuộng sự thinh lặng và chăm chú nghe nhiều cũng như nói năng có suy xét; họ không được ‘núp’ phía sau quyền bính khi không cần thiết.
Đào luyện truyền thông mục vụ phải bắt đầu trên bình diện cá nhân và trong quan hệ người với người, và dựa trên những phẩm chất nội tâm hơn là dựa trên kỹ thuật và suy nghĩ mà thôi. Đây thực sự là một việc đào luyện, một tiến trình hình thành con người nội tâm chứ không phải chỉ là đào tạo chủ yếu về kỹ năng. Người linh mục hay người hoạt động mục vụ phải là một người truyền thông theo cách họ tỏ ra và đối xử với người khác. Chăm sóc mục vụ là chăm sóc những con người và các mối quan tâm của họ chứ không chỉ là một chiến dịch ‘quảng cáo’ đức tin Kitô giáo hay Mười Điều Răn. Từ các nghiên cứu của mình về Thánh Inhaxiô Loyola nhà truyền thông, Lambert nhận ra các thái độ cơ bản sau đây mà mọi việc đào luyện phải lưu ý (tr. 44-60): (1) Khiêm nhường, yêu thương và kiên nhẫn, (2) Kính trọng, (3) Lắng nghe, (4) Tin tưởng, (5) Chú ý tới sự khác biệt của người bên cạnh mình, và (6) Nói sự thật trong bác ái: “Đi vào bằng cửa của người khác”.
Việc đào luyện truyền thông đã bắt đầu ngay từ trong gia đình rồi. Cách mà các trẻ em được nuôi dưỡng, được đối xử hay bị ngược đãi bởi cha mẹ, anh chị em, thầy cô và các bạn bè của chúng ở những năm đầu đời đã đặt nền móng để chúng trở thành những con người cởi mở, tin tưởng, tự tin, dễ truyên thông và muốn chia sẻ. Các tổn thương xảy ra trong những năm đầu đời chỉ có thể được sửa chữa một phần rất giới hạn ở những năm sau trong các chủng viện hay các trung tâm đào luyện mục vụ. Và ở đây cũng thế, không phải chỉ có tâm lý giúp sửa chữa, nhưng đúng hơn là kinh nghiệm toàn diện của một đời sống tâm linh sâu xa với một bầu khí hiểu biết lẫn nhau và đối thoại với các nhà đào luyện nói chung nhưng đặc biệt với các vị linh hướng. Cách riêng, việc linh hướng phải đặc biệt cống hiến cho việc đào tạo một thái độ truyền thông tốt bằng việc lắng nghe, hiểu biết, tin tưởng không dè giữ và kinh nghiệm thiêng liêng sâu xa. Vượt lên trên các kỹ thuật, việc linh hướng như thế phải giúp đi tới một thái độ truyền thông ngày càng tốt hơn trong cách cư xử với Thiên Chúa và tha nhân.
Sau cùng, đối với mọi việc đào luyện truyền thông mục vụ, chính con người Đức Giêsu chỉ cho chúng ta đường đi. Trong mẫu Truyền thông Kitô giáo mới, được phát triển cùng với một số sinh viên tại Đại học Santo Tomas ở Manila, điểm trọng tâm là thông điệp chứ không phải là người gửi thông điệp như trong các mẫu truyền thông thế tục. Trong các mẫu thế tục, người gửi là ‘người truyền lệnh’. Trong mẫu Kitô giáo, trọng tâm là Thông điệp, nghĩa là Lời Thiên Chúa, là chính Đức Giêsu Kitô, còn chúng ta, những người truyền thông, chúng ta chỉ là những sứ giả. Càng biết lắng nghe và được soi sáng bởi thông điệp, chúng ta càng là những sứ giả đích thực phục vụ LỜI trong hoạt động truyền thông mục vụ chân chính.
Đây là 3 ví dụ từ cuộc đời Đức Kitô, chúng phải giúp chỉ cho chúng ta một hướng đi như thế:
a. Tu sĩ Biển Đức Anselm Gruen, người Đức (2001, tr. 27-35) đã lấy lại câu chuyện Chúa Giêsu chữa người câm điếc (Mc 7,31-37) với lời nói cứu độ “Ephata - Hãy mở ra”. Carlo Montini cũng lấy câu chuyện này làm đề tài suy tư về truyền thông như là một kế hoạch mục vụ cho Tổng Giáo phận của ngài (1990). Gruen phân tích và làm rõ nét hoạt động truyền thông của Đức Giêsu trong việc chữa lành người bệnh theo 5 bước mà việc đào luyện truyền thông mục vụ phải đi theo trong tinh thần của Đức Kitô. Đó là:
1. Đức Giêsu đặt ngón tay lên tai người bệnh: Ngài đặt ngón tay vào vết thương để gọi tên nó và cho nó mở ra trước ‘vấn đề’. Động tác này cũng có nghĩa là: hãy bịt tai lại trước tiếng ồn bên ngoài và lắng nghe bên trong. Về phía Đức Giêsu, nó cũng có nghĩa là: Ta ở với con trong các khó khăn của con.
2. Đức Giêsu lấy nước miếng quệt vào lưỡi người bệnh: Động tác này giống như một nụ hôn, chạm vào người bệnh giống như một người mẹ âu yếm lấy nước miếng bôi lên vết thương của con mình. Phải có một bầu khí tin tưởng lẫn nhau, cởi mở và chăm sóc trước khi lưỡi có thể mở ra.
3. Đức Giêsu ngước mắt lên trời: Đó là Thiên Chúa, Cha của Người là Đấng chữa lành - chứ không phải chúng ta. Trong tiến trình truyền thông như thế, trời mở ra và Lời Thiên Chúa từ trời xuống, một Lời mà chúng ta phải học để biết lắng nghe. Hãy để cho Lời Thiên Chúa thực hiện và hướng dẫn mọi cố gắng truyền thông của chúng ta.
4. Đức Giêsu rên lên: Ngài có một cố gắng thực sự và thể hiện sức mạnh chữa lành và cứu giúp. Người chiến đấu với bệnh tật và mọi thế lực thù địch luôn tìm cách ngăn chặn việc truyền thông chữa lành. Động tác này cũng có nghĩa là Người chịu đau đớn cùng với người bệnh chứ không phải là một người bàng quan.
5. Ở bước cuối cùng này, tai và miệng người bệnh mở ra: việc truyền thông của Đức Giêsu muốn mở mọi giác quan và khả năng của chúng ta ra trước quyền năng chữa lành của Thiên Chúa trong cuộc đời chúng ta. Việc truyền thông của chúng ta có góp phần chữa lành giống như thế không, và nó có đi theo cùng một hướng ấy không?
b. Chúa Giêsu chữa lành nhạc mẫu của Thánh Phêrô (Mc 1,29-31). Chúa Giêsu truyền thông trong ba bước, được tóm gọn trong một câu trong truyện (1,31):
1. Đức Giêsu lại gần bà, mà theo lời cắt nghĩa của Gruen (2003,41) thì không chỉ là một chuyển động ‘bên ngoài’ mà là một động tác bên trong. “Đức Giêsu tiếp xúc với bà.”
2. Người cầm lấy tay bà. Khi chạm vào bà, ngài cảm thấy cơn sốt và “cảm nhận được điều đang xảy ra trong cơ thể bà. Người cảm thấy cuộc phấn đấu của bà... và dưới bàn tay che chở của Người, cuộc phấn đấu ấy dịu xuống và sức mạnh trở lại với bà...”.
3. Người đỡ bà trỗi dậy. “Máccô sử dụng ở đây cùng một từ mà ngài sẽ sử dụng khi nói về cuộc phục sinh. Người đỡ bà trỗi dậy, mở mắt cho bà để bà thấy được thực tại bằng cặp mắt mới. Người đỡ bà dậy để bà lại có thể đứng được...”.
Dù bằng cách này hay cách khác, mọi việc truyền thông mục vụ và truyền giáo đều phải chứa các bước cơ bản này.
c. Một ví dụ khác được Đức Gioan Phaolô II nêu ra cho các linh mục vào ngày Thứ Năm Tuần Thánh 2002. Ngài nói về tầm quan trọng của bí tích hoà giải và minh hoạ bằng một phân tích về câu truyện Tin Mừng kể về ơn gọi của ông Dakêu (Lc 19,1-10). Ngài cho thấy Đức Giêsu truyền thông với ông Dakêu bằng lời nói và hành động như thế nào. Ngài cũng vạch cho thấy chúng ta phải đi theo con đường nào trong việc đào luyện về truyền thông cho thừa tác mục vụ.
1. “Khi trèo lên cây sung”, Đức Giáo Hoàng nói, “Dakêu hình như chỉ bị tính tò mò thúc đẩy. Đôi khi các cuộc gặp gỡ của Thiên Chúa với con người có vẻ như chỉ là ngẫu nhiên. Nhưng Thiên Chúa không bao giờ làm điều gì ngẫu nhiên...”. Đôi khi sự tò mò đơn thuần cũng dẫn đến truyền thông thực sự nếu nó được đáp ứng thích hợp.
2. Bước tiếp theo, Đức Giêsu ngước nhìn lên ông và nói: ‘Ông Dakêu, xuống mau, vì hôm nay tôi phải đến ở nhà ông’. “Mọi cuộc gặp gỡ với người nào muốn đi xưng tội, cả khi được yêu cầu một cách hời hợt vì thiếu động cơ và thiếu chuẩn bị, nhưng nhờ ân sủng kỳ diệu của Thiên Chúa, vẫn có thể trở thành ‘nơi’ ấy - cây sung - chỗ Đức Giêsu ngước nhìn lên Dakêu.
3. Bước sau đó đưa chúng ta tới suy tư về ‘giọng điệu’ truyền thông của Đức Giêsu. “Tường thuật của Luca nổi bật về giọng điệu của ngôn ngữ: mọi cái đều quá mật thiết, quá khéo léo, quá thân thương! Bản văn không chỉ chứa đầy tình người; nó còn gợi lên sự nài nỉ, sự thúc bách mà Đức Giêsu diễn tả với tư cách là người ban mặc khải dứt khoát về tình thương của Thiên Chúa... Đi theo bản đồ lộ trình bí nhiệm mà Chúa Cha đã vạch ra cho Người, Đức Giêsu chạy đến gặp Dakêu trên đường đi. Người dừng lại gần ông như thể cuộc gặp gỡ đã được sắp đặt ngay từ đầu...
4. Hơn nữa, Đức Giêsu “tỏ ra là một người có một sứ mạng xác định. Có một ‘qui luật’ mà chính Người cũng phải tuân giữ; ý muốn của Cha mà Người thực thi bằng cuộc đời mình đến độ nó trở thành ‘lương thực’ của Người (x. Ga 4,34). Các lời Đức Giêsu nói với ông Dakêu không chỉ là phương tiện để thiết lập mối quan hệ nhưng là lời tuyên bố về một kế hoạch Thiên Chúa đã vạch ra. Cuộc gặp gỡ diễn ra trên cái nền là Lời Thiên Chúa, được đồng hoá với Lời và Khuôn Mặt Đức Kitô...”. Mọi việc truyền thông mục vụ phải dựa trên Lời Thiên Chúa, vì Thông Điệp là trọng tâm của mọi việc truyền thông Kitô giáo.
5. Sau cùng, có một yếu tố nữa trong cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu với ông Dakêu có ảnh hưởng đặc biệt trong việc đào luyện truyền thông mục vụ: Ông gặp con người Đức Giêsu trước tiên, chứ không phải gặp các giới răn của Thiên Chúa. “Chính Đức Giêsu là hồng ân đang chờ đợi Dakêu... Khi chúng ta nhìn cuộc gặp gỡ của chúng ta với Đức Giêsu như một hồng ân, thì cả những tính chất nặng nề nhất của luật cũng mang sự ‘nhẹ nhàng’ của ân sủng...”.
6. Phản ứng của Dakêu trước sự truyền thông này của Đức Giêsu được khích thích qua phong cách và các yếu tố của ‘thái độ mục vụ’ mà Đức Giêsu tỏ ra: “Ý thức mình bây giờ được đối xử như một người ‘con’, ông bắt đầu suy nghĩ và hành động như một người con, và ông diễn tả điều này bằng việc tìm lại được các anh chị em mình. Dưới cái nhìn âu yếm của ông đối với Đức Kitô, quả tim của Dakêu ấm lên tình yêu thương đồng loại. Từ một cảm giác cô độc... ông chuyển sang một thái độ chia sẻ...”.
(Xin xem thêm chi tiết về đào luyện ở mục truyền thông cấp quốc gia và quốc tế: Phần II, 4.3.5).
Sự thành thạo
Việc đào luyện người truyền thông mục vụ và truyền giáo phải làm cho họ hoàn toàn thành thạo trong nhiệm vụ này. Sự thành thạo này không chỉ là về các kỹ năng nhưng cần có phẩm chất cởi mở trong tâm hồn. Một bài viết về truyền thông và mục vụ cho Hội Nghị Các Giám Mục Pháp năm 1998 xác nhận rằng không phải dễ định nghĩa và lại càng rất khó để đạt được sự thành thạo về truyền thông. Theo quan điểm này, truyền thông đòi phải có những yếu tố sau:
* Một nhận thức rõ ràng về căn cước của mình
* Một khả năng lắng nghe giỏi
* Một khả năng và thái độ để
- phân tích các động cơ của người khác;
- hiểu đúng các mối quan tâm của họ;
- thấy trước các phản ứng của họ.
Tất cả là kết quả của sự luyện tập vất vả với bản thân mình.
Để có thể truyền thông hiệu quả, ngoài những điều khác, cần phải có trí tưởng tượng, óc sáng tạo và tài diễn tả.
Sự thành thạo về truyền thông cũng cần
* Khả năng chẩn đoán các tình huống;
* Can đảm sử dụng đúng các phương tiện hiện có, và
* Sự sáng sủa trong các thông điệp gửi đi.
5.2.2. Giáo dục về Phương tiện Truyền thông
Có sự khác biệt giữa ‘Phương tiện Truyền thông để Giáo dục’ và ‘Giáo dục về Phương tiện Truyền thông’. Việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật cho việc dạy học và giáo dục là thuộc phạm vi “Phương tiện Truyền thông để giáo dục” và cũng phải được dùng cho truyền thông mục vụ. Việc truyền thông với con người có thể rất thường xuyên được thể hiện một cách sống động hơn, thuyết phục hơn và kích thích hơn bằng cách sử dụng các phương tiện kỹ thuật để nhấn mạnh, bổ túc hay thậm chí thay thế việc giảng dạy bằng miệng. Thông thường các phương tiện truyền thông có một vai trò hỗ trợ mạnh hơn, đặc biệt khi chúng được dùng cho việc truyền thông trong các nhóm hay để dạy học. Chúng có thể làm sáng tỏ và hỗ trợ những điều được chia sẻ giữa những con người.
Tuy nhiên, ‘Giáo dục về Phương tiện Truyền thông’ có vẻ quan trọng hơn, vì nó có nghĩa là giáo dục việc sử dụng các Phương tiện một cách có phê phán và phân biệt. Chính Đức Piô XII đã từng nhắc đến điểm này khi ngài nói trong Thông điệp Miranda Prorsus (1957) về các phương tiện điện tử: “Điều tối quan trọng là phải huấn luyện và giáo dục tâm trí và xu hướng của khán giả một cách đúng đắn, để họ không những hiểu được các hình thức thích hợp với mỗi loại hình nghệ thuật mà còn được hướng dẫn bởi một lương tâm đúng” (x. Eilers, 1997, các số 114-119). Sắc lệnh Inter Mirifica của Công đồng Vatican II về Truyền thông Xã hội (1963) cũng quan tâm tới việc những người đón nhận phải “hiểu hoàn toàn những gì họ thấy, nghe hay đọc” (các số 10, 9). Sau đó, Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio (1971) trong một đoạn dài hơn cũng nhắc đến việc Giáo dục về Phương tiện Truyền thông như là “một việc huấn luyện giúp con người nắm vững những nguyên tắc cơ bản chi phối phương tiện truyền thông trong xã hội loài người... Nếu tính chất và chức năng của nó được hiểu rõ, phương tiện truyền thông sẽ thực sự làm giàu cho tâm trí con người”. Việc đào luyện này phải “bao gồm suy tư thiết thực về bản chất riêng của mỗi phương tiện, vị trí của nó trong cộng đồng địa phương và làm thế nào để sử dụng nó tốt nhất” (số 64). Ở điểm này, việc truyền thông mục vụ và giáo dục Kitô giáo có một trách nhiệm đặc biệt. Communio et Progressio hiểu rằng “không bao giờ quá sớm để bắt đầu khuyến khích nơi trẻ em việc thưởng thức nghệ thuật, một khả năng phê bình sáng suốt và một tinh thần trách nhiệm cá nhân dựa trên một nền đạo đức lành mạnh...” (số 67). Việc đào luyện truyền thông như thế “phải được cung cấp đều đặn trong chương trình nhà trường. Và phải được cống hiến một cách có hệ thống vào mỗi giai đoạn giáo dục” (số 69). Nhưng những ai chịu trách nhiệm về giáo dục không thể chia sẻ các trách nhiệm này nếu bản thân họ không “nắm vững một sự hiểu biết hợp lý về các phương tiện truyền thông” (số 70). Chính các người truyền thông, ngoài việc thông thạo lãnh vực chuyên môn của họ, còn phải có một sự hiểu biết sâu và một “tri thức cũng như kinh nghiệm vững chắc” về việc họ làm (số 71).
Tiếc rằng tại nhiều nơi, các đòi hỏi này của Huấn thị Mục vụ không được thể hiện nhiều. Nhưng trong thế giới của chúng ta mà các phương tiện truyền thông đang thống trị, một nền giáo dục như thế là hết sức cần thiết trong các trường học và các tổ chức khác của Hội Thánh. Cách riêng các người hoạt động mục vụ phải ý thức về thách đố này. Việc chăm sóc dân chúng như một mục tử tốt lành bao gồm sự hiểu biết rằng những người được trao phó cho chúng ta coi sóc đang nhận được những thông điệp và những ấn tượng gì. Người mục tử biết các chiên của mình cũng có nghĩa là ý thức về tình trạng của họ và giúp họ đối phó với các ảnh hưởng có thể tác động trên cách suy nghĩ, tính độc lập và sau cùng, phẩm giá của họ.
Là một nhà tiên phong trong lĩnh vực Giáo dục Phương tiện Truyền thông, Len Masterman trong quyển Giảng dạy các Phương tiện Truyền thông (Luân Đôn 1985/1990), đã mô tả như sau về “nguyên tắc đầu tiên của giáo dục phương tiện truyền thông mà từ đó mọi điều khác phát sinh và là nguyên tắc mà cả thầy lẫn trò đều phải liên tục trở về”:
“Các phương tiện truyền thông là những hệ thống biểu tượng (hay dấu hiệu) cần phải đọc một cách tích cực, chứ không phải là những suy tư đương nhiên và vô thưởng vô phạt về thực tại bên ngoài. Một cách hiểu khác về nguyên tắc này là nói rằng truyền hình, báo chí, phim ảnh, rađiô, quảng cáo và các tạp chí là những thứ được sản xuất. Các phương tiện truyền thông tham gia tích cực vào các tiến trình xây dựng hay biểu thị ‘thực tại’ chứ không chỉ truyền đi hay phản ánh thực tại” (tr. 20).
Giáo dục Phương tiện Truyền thông được xây dựng trên nguyên tắc này. Tất cả những thứ chúng ta thấy hay nhận từ các phương tiện truyền thông đều được “xây dựng lại, trình bày lại, sắp đặt và định hình một cách đặc trưng bởi các tổ chức truyền thông, các công nghệ truyền thông và việc thực hành của các chuyên gia truyền thông” (tr. 21). Đây cũng là một mối quan tâm mục vụ quan trọng.
Để giúp đi xa hơn trong tiến trình giáo dục này, Masterman đề nghị nghiên cứu và phân tích cấu trúc của phương tiện truyền thông ở ít là 4 bình diện, được phản ánh qua các câu hỏi sau đây (x. tr. 21):
1. Các nguồn và yếu tố quyết định của các cấu trúc truyền thông là gì: Ai xây dựng chúng, với những ý hướng, động cơ hay mục đích gì?
2. Đâu là các kỹ thuật và các hệ thống ký hiệu chủ yếu “được sử dụng bởi các phương tiện truyền thông để làm chúng ta tin rằng các biểu thị của chúng là đúng sự thật”?
3. Bản chất của ‘thực tại’ được xây dựng là gì và các giá trị hàm ẩn trong các biểu thị là gì?
4. Các cấu trúc của các phương tiện truyền thông được khán thính giả đọc hay nhận như thế nào?
Bất cứ linh mục và người hoạt động mục vụ nào cũng phải quan tâm đặc biệt tới câu hỏi cuối cùng này, bởi vì nó nói lên sự hiểu biết, điều kiện, tâm trạng và tình cảm mà mình có thể mong đợi nơi những người tiếp nhận các hoạt động truyền thông nhưng đồng thời cũng là những người được giao phó cho mình coi sóc. Nhưng họ cũng phải hỏi: làm thế nào mình có thể phục vụ nếu mình không được đào tạo và hiểu biết thành thạo về cái ‘thực tại’ được xây dựng bởi các phương tiện truyền thông? Tình huống này càng trở nên phức tạp hơn nữa qua các phương tiện truyền thông mới như Internet, việc xây dựng các ‘thực tại ảo’ để người ta trốn tránh hay đôi khi thậm chí còn ‘biến đổi’ các thực tại ‘hiện thực’ của chính họ.
William Fore mô tả (1987, 68) sự thách thức của việc giáo dục phương tiện truyền thông thực sự trong phương thức mục vụ mà ta cũng có thể đem áp dụng cho mọi phương tiện truyền thông khác:
“Các cá nhân cần phải vun trồng khả năng có một lập trường và tạo ‘khoảng cách’ thẩm mỹ và trí thức giữa mình và những điều mình thấy trên TV, và sau đó hình thành một nhãn quan có phê phán được soi sáng bởi đức tin để xem những gì đang diễn ra hay nói ra trên TV. Nếu không giữ được ‘khoảng cách’ này, chúng ta sẽ dễ trở thành nạn nhân của sự ngu dốt và tự mãn của chính mình. Thế giới của TV dễ dàng trở thành thế giới của chúng ta. Mặt khác, nếu chúng ta phát huy được một lập trường suy tư có phê phán, chúng ta có thể vừa làm sáng tỏ hệ giá trị của mình vừa đồng thời quay lại để tìm hiểu nguồn gốc đức tin của chúng ta. Chuyển động qua lại này giữa đức tin và thực hành, giữa tinh thần và thực tại, giữa Nước Chúa và các nước thế gian, chính là ơn gọi của tất cả những ai ngày hôm nay tự xưng là có đạo”.
5.2.3. Hướng tới người tiếp nhận
Truyền thông mục vụ và truyền giáo phải đặc biệt hướng tới người tiếp nhận và như thế nó cũng góp phần chung chung vào một phương thức truyền thông nhân bản hơn. Đức Giêsu đòi hỏi người mục tử (Ga 10) trước hết phải biết chiên của mình. Nhưng điều này có nghĩa là gì trong các cách diễn tả và các thái độ cụ thể hơn?
Lãnh vực truyền thông ngày nay, đặc biệt lĩnh vực Truyền thông Đại chúng, chủ yếu là hướng về người truyền thông theo nghĩa là ‘Người Gửi’ chủ động quyết định mình nói gì và nói thế nào. Họ chỉ quan tâm đạt được sự hâm mộ của các khán thính giả, bán được hàng hay lôi kéo được dư luận về chính trị, về các ngôi sao và có thể cả phong cách sống. Các nhu cầu và mong đợi thực sự của người tiếp nhận thường dễ bị bỏ qua hay lèo lái sao cho hợp với các ý đồ của những người làm chương trình.
Trong hoạt động của mình về truyền thông mục vụ, Hội Thánh không quan tâm đến việc tăng uy tín hay bán được hàng cho bằng tôn trọng các nhu cầu của dân, thăng tiến phẩm giá của họ và giúp họ làm chủ đời sống của chính họ. Paolo Freire trong cuốn Khoa sư phạm của những người bị áp bức đã đưa nhiều người tại những nước đang phát triển đi từ ‘hệ thống ngân hàng’ kiến thức kiểu ‘học vẹt’ sang việc ‘gây ý thức’ về tình huống thực của họ và phẩm giá riêng của họ. Truyền thông mục vụ phải giúp ‘gây ý thức’ cho người ta phát huy khả năng phán đoán của chính họ và cũng giúp họ tự quyết định các nhu cầu và tiềm năng truyền thông của chính họ. Có nghĩa là người truyền thông Kitô giáo phải ý thức về một tình huống như thế và cố gắng hết sức để phát triển và bảo vệ nhân phẩm và các quyền lợi của người tiếp nhận. Một cách chi tiết hơn, nó có nghĩa là:
a. Trong việc truyền thông giữa người với người, người truyền thông mục vụ và truyền giáo trước tiên phải ý thức và quan tâm đến những người mà mình đang tiếp xúc và đối xử với:
Họ thuộc loại tính cách nào?
Họ có những kinh nghiệm gì?
Các mối quan tâm và mong đợi của họ là gì?
Các nhu cầu thực của họ là gì?
Các niềm khát vọng thực sự của họ là gì?
Ai quyết định các hành động và kế hoạch của họ?
Đáp ứng truyền thông của người mục vụ truyền thông trước tiên phải được quyết định bởi các câu trả lời cho các câu hỏi trên đây chứ không phải bởi ý hướng riêng của người truyền thông. Việc truyền thông Kitô giáo không chỉ là một việc ‘thi hành’ bên ngoài hay của trí tuệ, mà là một nỗ lực để thực sự sống với dân. Nó thực hành ‘các yếu tố cơ bản của việc truyền thông con người’ như được chính Đức Giêsu thể hiện khi đối xử với dân chúng (x. Mc 1,31), đó là: 1) Đến với người khác; 2) Đặt mình vào hoàn cảnh của họ, và nhờ đó 3) Giúp họ chữa lành. Đối với người truyền thông Kitô giáo, điều này có nghĩa là họ phải có thái độ nội tâm biết quên mình, làm cho người khác cảm thấy thoải mái, niềm nở với người khác, dành thời giờ cho họ và lắng nghe họ. Giống như Đức Giêsu biết và thích nghi với hoàn cảnh và nhu cầu của dân, người truyền thông mục vụ cũng phải làm như thế. Phải quan tâm trước tiên tới con người đã, rồi sau đó mới tới thông điệp khi nó đã có cơ sở để được đón nhận.
b. Thái độ hướng tới người tiếp nhận cũng còn phải suy xét nghiêm túc về môi trường văn hoá của họ. Văn hoá hình thành và quyết định cuộc đời và hành vi của con người ngay từ lúc họ mới sinh ra. Vì vậy văn hoá cũng phần lớn quyết định các ‘lập trường’ của con người, các niềm mong đợi và nhu cầu của họ. Các hình thức văn hoá truyền thống đa phần liên quan tới lãnh vực truyền thông như kể truyện, phong tục và lễ nghi, nhảy múa, âm nhạc, các thái độ cá nhân và các cách người ta quan hệ với nhau. Phải suy xét nghiêm túc về các hình thức này trong mọi cố gắng truyền thông mục vụ hay truyền giáo và mọi quy luật và kinh nghiệm về ‘hội nhập văn hoá’ đang diễn ra.
c. Ngoài các nền văn hoá truyền thống nơi người ta sinh ra và lớn lên, thời nay người ta cũng còn chịu ảnh hưởng của ‘văn hoá phương tiện truyền thông’ thường có sức áp đặt lên các kinh nghiệm văn hoá truyền thống. Sự phát triển này ảnh hưởng thế nào trên cuộc đời, các mong đợi và các ‘nhu cầu’ của con người thời nay, đặc biệt giới trẻ? Họ có đủ sự ‘ý thức’ theo nghĩa của Paolo Freire để không đánh mất căn cước và phẩm giá của mình, hay họ đang trở thành nô lệ cho một nền văn hoá như thế, một nền văn hoá đa phần bị đưa đẩy bởi chủ nghĩa thương mại và những tình cảm và cảm xúc không còn trung thực nữa? Người truyền thông Kitô giáo nhìn ra tình huống này tới mức nào và nghiên cứu cũng như suy tư sâu bao nhiêu trước khi họ tham gia một cách không phê phán vào cỗ xe của một nền ‘văn hoá’ mới không chắc là giúp thăng tiến phẩm giá con người? Đức Gioan Phaolô II đã nhắc đến tất cả các vấn nạn này khi ngài mô tả về một ‘văn hoá mới’ với ngôn ngữ mới, kỹ thuật mới và một tâm lý mới (x. Redemptor Missio, 37). Chúng ta phản ứng và đối diện với thách thức này như thế nào?
d. Cũng liên quan đến điểm này là người truyền thông mục vụ và truyền giáo cần phải thấy và biết được rằng các cá nhân và cộng đồng bị chi phối tới mức nào bởi các tiến trình và các điều kiện như thế. Cụ thể có nghĩa là họ cần phải biết người ta đang xem cái gì và nói về cái gì: Ví dụ, một số chương trình TV quyết định và ảnh hưởng tới đời sống họ tới mức nào? Họ bắt chước các phong cách sống của các chương trình TV hay các chương trình quảng cáo như thế nào và bằng cách nào họ đánh mất khả năng tự quyết định dựa trên phẩm giá và khả năng phát triển các sở thích riêng của họ nhờ ý thức về những trách nhiệm riêng của họ mà các phương tiện truyền thông không thể nào thay thế được?
Có vẻ như trong việc truyền thông mục vụ và truyền giáo có nguy cơ là những người truyền thông quyết định trước các nội dung và hình thức truyền thông rồi sau đó mới nghiên cứu và mở ra các nhu cầu và tâm trạng thực sự của những người tiếp nhận. Tình trạng này được phản ánh chẳng hạn trong các bài giảng Chúa Nhật, khi người giảng thuyết hoàn toàn bỏ qua các tình huống thực sự của người nghe, nhưng cũng được phản ánh trong nhiều sinh hoạt khác nữa. Người truyền thông mục vụ cần phải có một sự ‘quên mình’ nào đó để trong hoạt động truyền thông của mình, họ có thể thực sự trở thành những người đầy tớ phục vụ dân chúng trong mọi nhu cầu và tình huống thực sự của họ.
Ý thức về tình huống truyền thông của người tiếp nhận trong mọi khía cạnh của họ là yếu tố quyết định cho việc truyền thông Kitô giáo. Đó là lấy những người tiếp nhận làm mối quan tâm chủ yếu của mình chứ không phải các dự phóng hay ý tưởng riêng của mình... Có nghĩa là với tinh thần phục vụ, cần phải vượt qua các hình thức bề ngoài và các giáo thuyết để đến được với đời thật của dân chúng.
Các mẫu truyền thông khác nhau do các nhà nghiên cứu về truyền thông triển khai có thể qui vào ba phạm trù. Nó không phải là phương thức hàng dọc theo đó người gửi quyết định thông điệp và mối quan tâm là việc truyền đi thông tin để tác động đến người nhận. Đúng hơn nó là các phương thức tham dự được thực hiện, trong đó mối quan tâm là sự ‘đồng quy’ giữa hai người truyền thông và sự chia sẽ giữa họ với nhau để ngày càng đạt đến một ‘cơ sở chung’. Thay vì phương thức trên-dưới, nó là phương thức dòng chảy theo hàng ngang của những sự hiểu biết và kinh nghiệm chung. Mẫu ký hiệu tìm cách đọc ra các ý nghĩa của các dấu hiệu cũng là một mẫu có ích trong truyền thông mục vụ: Đọc được ý Chúa trong các dấu hiệu của thời đại nhưng đồng thời hiểu Kinh Thánh và các nghi lễ phụng vụ được cống hiến cho dân chúng chứ không phải cho cha xứ hay để cha xứ sử dụng. (Về các mẫu truyền thông chi tiết, x. Eilers 2002, tr. 27-32).
Trong thực tế truyền thông Kitô giáo, cả ba loại mẫu truyền thông trên đây đều có một vai trò giống như lối truyền đạt tri thức theo hàng dọc, chẳng hạn như trong huấn giáo và giảng dạy, nhưng đối với truyền thông mục vụ, các mẫu tham dự và ký hiệu là quan trọng hơn, chúng dựa trên sự tương tác và tìm kiếm ý nghĩa.
6. Các văn kiện và các cơ cấu truyền thông của Hội Thánh
Mọi việc Truyền thông Kitô giáo đều phải được khởi sự từ việc truyền thông của Đức Giêsu Kitô, ‘người truyền thông hoàn hảo’. Nhưng chúng ta cũng không được bỏ qua các văn kiện và cơ cấu khác của Hội Thánh giúp đưa việc truyền thông của Đức Kitô và các đòi hỏi của nó vào thời đại chúng ta.
6.1. Các văn kiện của Hội Thánh
Thông điệp Vigilanti Cura (1936) của Đức Giáo hoàng Piô XI về phim ảnh mở ra một chuỗi những văn kiện tích cực của Hội Thánh truyền thông xã hội. Sau đó, năm 1957, có Thông điệp Miranda Prorsus của Đức Piô XII về các phương tiện điện tử, kể thêm truyền thanh và truyền hình vào với phim ảnh. Văn kiện rất sâu sắc này đã trở thành nguồn gợi hứng cho Sắc lệnh về Truyền thông Xã hội Inter Mirifica của Công đồng Vatican II. Văn kiện dài này trước tiên được đưa ra cho các Nghị phụ Công đồng xem xét và đã được cắt ngắn từ 144 đoạn xuống chỉ còn 24 đoạn để chỉ giữ lại các điểm cơ bản nhưng với một đòi hỏi rõ ràng (IM 23) là Uỷ ban Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội sẽ cử một ban chuyên môn soạn thảo một Huấn thị Mục vụ chi tiết. Chính Uỷ ban Giáo hoàng này cũng là kết quả từ các nghị quyết và đề nghị của Công Đồng, và là một cơ quan thường trực về truyền thông (IM 19). Kết quả là Huấn thị Communio et Progressio được xuất bản năm 1971. Văn kiện này gồm 187 đoạn và được viết dựa trên các nguyên tắc của Sắc lệnh Công đồng Vatican II. Huấn thị này được coi là một trong số các văn kiện hay nhất của Hội Thánh về Truyền thông Xã hội từ trước tới nay. Khoảng 20 năm sau khi Huấn thị này ra đời, một Huấn thị Mục vụ thứ hai là Aetatis Novae được xuất bản năm 1992 để kỷ niệm, bổ túc và tiếp nối Huấn thị 1971. Điều này cũng được ghi rõ trong phụ đề của Huấn thị là được ban hành “nhân kỷ niệm năm thứ 20 Huấn thị Communio et Progressio”.
Theo sau việc đưa vào hằng năm Ngày Thế giới Truyền thông qua Sắc lệnh Inter Mirifica của Vatican II (số 18), kể từ đó các Đức Giáo Hoàng hằng năm đều gửi một thông điệp cho ngày ấy với một chủ đề đặc biệt. Sưu tập các thông điệp này là một kho tàng được thêm vào cho các giáo huấn của Hội Thánh về Truyền thông Xã hội, đặc biệt trong khía cạnh mục vụ của nó (xem thêm ở Phần II, 4.3.6).
Ngoài hai văn kiện chính thức này của Huấn Quyền và của Công đồng Vatican II, còn có các tài liệu khác của Hội Đồng (tên gọi cũ là Uỷ ban) Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội về các đề tài và các mối quan tâm đặc biệt. Chẳng hạn, chúng ta có một văn kiện về “Khiêu dâm và Bạo lực: Một Phản ứng Mục vụ” (1989) và một về “Các tiêu chuẩn về hợp tác đại kết và liên tôn trong Truyền thông” (1989). Cũng có các bản văn về Đạo đức trong Quảng cáo (1987), trong Truyền thông (2000) và trên Internet (2002). Còn có một văn kiện về “Hội Thánh và Internet” (2002). Tất cả các văn kiện này phản ánh một mối quan tâm mục vụ sâu xa và rất có ích trong các vấn đề mà các tựa đề nói lên.
Các cơ quan khác tại Toà Thánh cũng như các Hội đồng Giám mục, Liên Hội đồng các Giám mục Châu Á (FABC), và từng giám mục một cũng thỉnh thoảng công bố các văn kiện và các suy tư có thể nâng đỡ và soi sáng cho việc truyền thông mục vụ và truyền giáo và một phần đặt chúng trên cấp địa phương.
Để tham khảo bản văn đầy đủ của các văn kiện, xem: Franz-Josef Eilers (Chủ biên): Church and Social Communication. Basic Documents, 2nd Edition, (Logos/Divine Word) 1997, và: Supplement I, Basic Documents 1998-2002, Manila 2002.
6.2. Các cơ cấu của Hội Thánh
Cơ cấu truyền thông cơ bản trong Hội Thánh mang tính phẩm trật và dựa trên các giám mục. Tuy nhiên cũng có các tổ chức chuyên môn làm việc và phối hợp trong lãnh vực này.
6.2.1. Cơ cấu phẩm trật
Ngay từ Thông điệp Vigilianti Cura (1936), Đức Piô XI đã đề nghị thiết lập các văn phòng điện ảnh quốc gia để giúp đặc biệt đánh giá các phim ảnh. Các văn phòng này được thiết lập bởi các Hội đồng Giám mục của mỗi quốc gia. Chúng phải được coi là một hình thức khởi đầu của cơ cấu truyền thông cho Hội Thánh. Đức Piô XII nhắc đến sáng kiến này trong Thông điệp Miranda Prorsus, xác nhận và chấp nhận sáng kiến nhưng mở rộng sáng kiến về phim ảnh sang cả các phương tiện truyền thông điện tử khác (Eilers 1997, các số 184, 215). Sau đó Công Đồng “quyết định và truyền thiết lập khắp nơi các văn phòng quốc gia về báo chí, phim ảnh, truyền thanh và truyền hình...” (Inter Mirifica 21).
Sắc lệnh của Công Đồng cũng cho các hoạt động truyền thông một cơ cấu thực thụ, bắt đầu với “một văn phòng đặc biệt của Toà Thánh” (số 19) cho tới các giám mục và các hội đồng giám mục quốc gia và vùng. Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio còn làm sáng tỏ thêm và mô tả các trách nhiệm trong các cơ cấu này. Chính nguyên tắc trách nhiệm phẩm trật của Hội Thánh cũng thiết định cơ cấu truyền thông của Hội Thánh với những vị chịu trách nhiệm cuối cùng là đức giáo hoàng và các giám mục. Các cơ quan chuyên môn đóng vai trò bổ sung và phục vụ trong cơ cấu này.
6.2.1.1. Hội đồng Giáo hoàng
“Hội đồng Giáo hoàng về các Phương tiện Truyền thông Xã hội” bắt nguồn từ một uỷ ban giáo hoàng về phim ảnh giáo dục và tôn giáo. Các niên hiệu sau đây cho chúng ta một cái nhìn chung về sự phát triển Văn phòng Truyền thông của Vatican II cho tới năm 1993:
1948: Thiết lập Uỷ ban Giáo Hoàng về Phim ảnh Giáo dục và Tôn giáo.
1952: Uỷ Ban này được mở rộng sang lĩnh vực truyền thanh, truyền hình và điện ảnh.
1959: Uỷ Ban trở thành một cơ quan thường trực trong cơ cấu và lệ thuộc Văn phòng Quốc vụ khanh (Motu proprio Boni Pastoris ngày 22-2-1959 của ĐGH Gioan XXIII).
1963: Văn kiện Công đồng Inter Mirifica nói rằng, để hoàn thành trách nhiệm mục vụ tối thượng của ngài về các phương tiện truyền thông xã hội, Đức Giáo Hoàng có một văn phòng đặc biệt tại Toà Thánh (số 19).
1964: Trách nhiệm của Uỷ Ban cũ nay được mở rộng cho mọi phương tiện truyền thông. Tên gọi của Uỷ Ban được đổi thành Uỷ ban Giáo hoàng về các Phương tiện Truyền thông Xã hội (Motu proprio In fructibus multis, 2-4-1964).
1988: Trong khuôn khổ cuộc cải tổ cơ cấu hành chánh của Vatican, Uỷ Ban được đổi thành “Hội đồng Giáo hoàng” về các Phương tiện Truyền thông Xã hội.
Uỷ Ban trước kia và nay là Hội Đồng chịu trách nhiệm triển khai, soạn thảo và xuất bản các Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio và Aetatis Novae. Việc xuất bản Communio et Progressio thực ra là một trong các nhiệm vụ chính được giao cho văn phòng này bởi Motu proprio In fructibus multis. Ngoài nhiệm vụ này và việc triển khai các văn kiện và huấn thị tiếp theo, Hội Đồng này còn có nhiệm vụ phối hợp và liên lạc với các sáng kiến của các giám mục trên khắp thế giới. Trong nội các , Hội Đồng này thi hành một số bổn phận nhưng trực thuộc Văn phòng Quốc Vụ Khanh. Chẳng hạn, Hội Đồng cấp giấy phép cho các đội ngũ điện ảnh và truyền hình trên lãnh thổ . Có một thời trong quá khứ, Nhà In Lớn (Sala stampa) của nằm dưới trách nhiệm của văn phòng này. Bây giờ, giống như Đài Phát Thanh , nhà in này nằm trong một khâu truyền thông đặc biệt tại Văn phòng Quốc Vụ Khanh.
6.2.1.2. Các văn phòng quốc gia
Ở cấp quốc gia, các HĐGM có trách nhiệm đầu tiên và cao nhất trong việc tạo dựng cơ sở cho các hoạt động truyền thông trong nước họ. Trách nhiệm này được thực thi đặc biệt qua các văn phòng quốc gia mà quyền lãnh đạo “được giao cho một uỷ ban đặc biệt gồm các giám mục hay một số vị được giám mục uỷ quyền” (Inter Mirifica số 21). Theo Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio, uỷ ban giám mục sẽ “đề ra những hướng dẫn tổng quát cho việc phát triển hoạt động tông đồ truyền thông xã hội ở cấp quốc gia” (số 172).
Công đồng Vatican II “quyết định và truyền thiết lập khắp nơi các văn phòng quốc gia lo về báo chí, phim ảnh, truyền thanh và truyền hình”. Theo Công Đồng, các văn phòng này có “bổn phận đặc biệt” là “giúp tín hữu hình thành một lương tâm đúng đắn về việc sử dụng các phương tiện truyền thông này, nuôi dưỡng và phối hợp các hoạt động công giáo nhắm tới mục đích này” (Inter Mirifica, số 21). Yêu cầu này của Công Đồng được lặp lại trong Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio (số 169), ở đó sứ mạng của các văn phòng quốc gia còn được diễn tả chi tiết hơn (số 170, 171).
Theo Huấn thị, các văn phòng quốc gia về truyền thông có các bổn phận sau:
- Kích thích, cổ vũ và phối hợp các hoạt động công giáo trong lĩnh vực truyền thông xã hội.
- Tư vấn và duy trì “các mối tiếp xúc với thế giới chuyên môn về truyền thông xã hội...”.
- “Tổ chức Ngày Thế giới Truyền thông trên cấp quốc gia”.
- “Tổ chức quyên góp quỹ” vào Ngày Thế giới Truyền thông.
Xem thêm chi tiết ở Phần II, 4.3.1.
Huấn thị Mục vụ Aetatis Novae đặc biệt nhấn mạnh trách nhiệm của các HĐGM và các giáo phận về việc giáo dục và đào tạo truyền thông như một phần cơ bản của việc đào luyện các người hoạt động mục vụ và các linh mục (số 18) và việc chăm sóc mục vụ cho các chuyên gia truyền thông (số 19). Văn kiện này cũng yêu cầu đưa “nhân tố truyền thông” vào mọi kế hoạch mục vụ của các cơ quan của Hội Thánh và phát triển “các kế hoạch mục vụ đặc biệt cho chính lãnh vực truyền thông” ở các cấp hoạt động khác nhau của Hội Thánh (số 20-23), phù hợp với điều kiện tại mỗi địa phương. Trên thực tế, Huấn thị Mục vụ này kết thúc một cách cụ thể bằng một số “Hướng dẫn cho việc thiết kế các kế hoạch Mục vụ về Truyền thông Xã hội tại một giáo phận, Hội Đồng Giám Mục hay Đại hội Nghị phụ” (các số 24-33).
Xem thêm Phần II, 4.2 và II, 4.3.
6.2.1.3. Các căn phòng quốc tế
Sắc lệnh Inter Mirifica của Vatican II gợi ý rằng “ở đâu ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông vượt qua các ranh giới quốc gia... các tổ chức cấp quốc gia phải kết hợp với nhau và nhắm tới mục tiêu quốc tế” (số 22). Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio đề nghị thiết lập các tổ chức truyền thông châu lục hay vùng, ở đó “có một HĐGM bao gồm nhiều quốc gia”. Các tổ chức này cũng sẽ “chịu sự chỉ đạo tổng quát của một giám mục hay một số giám mục” (số 173).
Vì các HĐGM cấp vùng hay châu lục hiện nay đã có trên gần như khắp thế giới, các cơ quan hay các tổ chức truyền thông tương ứng cũng đã có như thế. Chẳng hạn như ở Châu Mỹ Latinh có cơ quan “DECOS-Celam” (“Departamento de communicacion social”) của CELAM; ở Châu Á có Văn Phòng Truyền thông Xã hội (OSC=Office of Social Communication”) của Liên Hội đồng Giám mục Châu Á (FABC=Federation of Asian Bishops’ Conferences); và Châu Phi có CEPACS (Comité Episcopal Panafricain des Communications Sociales=Uỷ Ban Giám Mục Toàn Phi về Truyền Thông Xã Hội), Bộ phận truyền thông của “Hội Nghị các HĐGM tại Châu Phi và Madagascar” (SECAM = Symposium of Episcopal Conferences in Africa and Madagascar) cũng như cho Châu Âu. Một điển hình về văn phòng truyền thông vùng tại một châu lục là “Liên hiệp các HĐGM tại Đông Phi” (AMECEA) cho vùng Đông Phi; cũng có các văn phòng vùng tương tự cho Tây Phi nói tiếng Anh, cũng như cho vùng Châu Phi và Nam Phi nói tiếng Pháp.
Các hoạt động và bổn phận của các văn phòng cấp châu lục và vùng cũng giống như của các văn phòng cấp quốc gia khi có thể thực hiện trong hoạt động quốc tế. Tất nhiên cũng phải có một sự hợp tác và phối hợp chặt chẽ giữa các văn phòng châu lục, vùng cũng như quốc gia và Hội Đồng Giáo Hoàng về các Phương Tiện Truyền Thông Xã Hội (xem Communio et Progressio, số 172).
6.2.1.4. Các văn phòng giáo phận
Đối với từng giáo phận cũng thế, các văn kiện Hội Thánh đề nghị thiết lập một văn phòng truyền thông bởi vì “các giám mục trong giáo phận mình có bổn phận trông coi các hoạt động và công cuộc loại này, cổ vũ và điều chỉnh chúng tuỳ theo mức độ chúng ảnh hưởng một cách công khai tới hoạt động tông đồ.” Sắc lệnh Công Đồng cũng thêm rằng “nhiệm vụ này bao trùm cả các hoạt động dưới sự kiểm soát của các hội viên của các cộng đoàn tu sĩ miễn trừ” (Inter Mirifica, số 20). Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio lặp lại đòi hỏi này của Công Đồng và nói rằng “khi có thể, phải thiết lập các văn phòng liên giáo phận. Một trong các nhiệm vụ chính của các văn phòng này là tổ chức hoạt động tông đồ mục vụ này trong giáo phận, thấm nhập thẳng xuống các giáo xứ” và chuẩn bị Ngày Thế giới Truyền thông trong giáo phận. Các bổn phận của các văn phòng giáo phận cũng giống như ở các văn phòng quốc gia, nhưng giới hạn vào cấp giáo phận (x. Communio et Progressio, số 170-171).
Xem thêm chi tiết ở Phần II, 4.2.
6.2.1.5. Các người phát ngôn hay đặc trách báo chí
Đối với mỗi giáo phận cũng như mọi tổ chức khác của Hội Thánh trong cơ cấu này như các HĐGM và Toà Thánh, cũng phải có một “người phát ngôn hay đặc trách báo chí chính thức và thường trực,”có nhiệm vụ “phát hành các tin tức và giải thích rõ ràng các văn kiện của Hội Thánh để dân chúng có thể nắm bắt chính xác ý nghĩa của chúng...” (Communio et Progressio, số 174).
Từ các văn kiện Hội Thánh, ta thấy rất rõ rằng trách nhiệm cuối cùng về truyền thông của Hội Thánh thuộc về các giám mục và các Hội đồng Giám mục. Tuy nhiên, về cụ thể, điều này có nghĩa là nhiều chuyện còn tuỳ thuộc sự cởi mở và hiểu biết của các giám mục này mà đa số không phải là các chuyên gia trong lĩnh vực truyền thông. Ở đây, các cuộc hội thảo và các khoá đào tạo cho các giám mục sẽ rất hữu ích để phát huy việc truyền thông trong nội bộ Hội Thánh và hoạt động tông đồ truyền thông xã hội của Hội Thánh.
6.2.2. Các Tổ chức Chuyên môn
Cơ cấu trách nhiệm phẩm trật về truyền thông trong Hội Thánh đã chỉ bắt đầu được phát triển một cách hệ thống hơn từ năm 1936 theo sau Thông điệp Vigilanti Cura của Đức Piô XI với việc khuyến khích thiết lập các Văn Phòng Quốc Gia về phim ảnh. Trước đó khoảng 10 năm, các chuyên gia đã bắt đầu qui tụ lại với nhau rồi. Các phóng viên công giáo đã bắt đầu lập hội của họ trong một cuộc triển lãm quốc tế về Báo chí tại Cologne, nước Đức, vào tháng 12-1927, nay là Liên hiệp Báo chí Công giáo Quốc tế (UCIP=Union Catholique Internationale du Press) đặt trụ sở tại Geneva. Các chuyên gia về Truyền thanh và Điện ảnh Công giáo nối gót gần một năm sau với hai tổ chức Unda và Văn phòng Điện ảnh Công giáo Quốc tế (OCIC=Office Internationale Catholique du Cinéma). Cả hai tổ chức này đã sát nhập thành một vào tháng 11-2001 dưới tên gọi chung là Signis. Các tổ chức này đã “được Toà Thánh công nhận hợp pháp và chịu trách nhiệm trước Toà Thánh”, theo lời Sắc lệnh về Truyền thông Xã hội của Vatican II (số 22). Chúng giúp các chuyên gia công giáo hoàn thành bổn phận một cách có trách nhiệm, cổ võ sự hợp tác và tình hữu nghị. Trên bình diện quốc gia, các tổ chức quốc tế này còn có thể được phân thành các nhóm chuyên môn như nhóm các nhà xuất bản, nhóm các phóng viên cá nhân, và nhóm các tạp chí...
Các mong đợi của Hội Thánh về các tổ chức chuyên môn này được diễn tả trong một đoạn đặc biệt của Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio (số 179). Theo đó, các tổ chức này có mục đích bổ sung và nâng đỡ cơ cấu phẩm trật bằng việc cống hiến khả năng chuyên môn của họ để giúp các giám mục chu toàn tốt hơn các bổn phận của các ngài. Tại những nơi có sự hợp tác chặt chẽ giữa các văn phòng quốc gia của hàng giáo phẩm với các tổ chức chuyên môn này, các công việc diễn tiến tốt đẹp và sự sáng tạo có thể phát triển. Nhiều khi cùng một số người chịu trách nhiệm ở cả hai cấp. Nhưng ở những nơi mà vì lý do này hay lý do khác không có sự hợp tác chặt chẽ và hỗ trợ nhau như thế, các mối căng thẳng thường dễ phát sinh.
Cả hai tổ chức quốc tế chính thức này đều được thành lập dựa trên cơ sở địa lý. Tuy nhiên tổ chức UCIP cũng còn có thêm các nhóm kết hợp (các Liên Đoàn) dựa theo các ngành hoạt động báo chí khác nhau.
Xem thêm chi tiết ở Phần II, 4.3.4.
Còn tiếp