Print  
"Truyền thông trong Mục vụ và Truyền giáo" (5)
Bản tin ngày: 10/01/2011   Website: Truyền bá Tin Tức Công Giáo

Ấn bản thứ hai

 

Nguyên bản: COMMUNICATING IN MINISTRY AND MISSION

Tác giả: FRANZ-JOSEF EILERS, SVD

***

PHẦN II

TRUYỀN THÔNG MỤC VỤ

4. Truyền thông mục vụ ở các cấp khác nhau trong Hội Thánh

4.1. Truyền thông ở cấp giáo xứ

Tại hầu hết các nơi, giáo xứ vẫn còn là hình thức chính đề cộng đoàn sống đức tin Kitô của mình. Giáo xứ có thể được tổ chức dựa trên cơ sở địa lý, như trong hầu hết các trường hợp, nhưng cũng có thể là một giáo xứ dựa trên cơ sở con người, gồm một nhóm người ở những nơi khác nhau. Bất luận dưới hình thức nào, giáo xứ là một cơ thể sống động và vì thế để tồn tại, nó lệ thuộc những hoạt động truyền thông thích hợp và tiến bộ giữa các thành viên. Truyền thông mục vụ quan tâm tới sự hoạt động, phát triển và nâng đỡ việc truyền thông này vì lợi ích thiêng liêng, và đôi khi cả lợi ích vật chất của các thành viên giáo xứ. Việc chăm lo cùng với và cho các thành viên của một giáo xứ là phần thiết yếu của lĩnh vực truyền thông mục vụ. Trong hoạt động này, các thành viên có các chức năng và trách nhiệm khác nhau, nhưng cũng có các phương tiện và khả năng khác nhau để phát triển việc truyền thông này và bảo đảm cho giáo xứ một cuộc sống và một sự phát triển tốt vì Nước Thiên Chúa.

Theo Tông huấn Christifideles Laici (1988) của Đức Gioan Phaolô II, giáo xứ là “nơi mà chính ‘mầu nhiệm’ của Hội Thánh hiện diện và hoạt động... Giáo xứ chủ yếu không phải là một cơ cấu, một lãnh thổ, hay một toà nhà, mà là ‘gia đình Thiên Chúa, một tình bạn cháy bừng tinh thần hiệp nhất’ (Lumen Gentium, số 28), ‘một mái nhà thân mật và niềm nở tiếp đón’ (Catechesi Tradendae, số 67), ‘cộng đoàn tín hữu’ (Giáo luật điều 515). Nói một cách đơn sơ rõ ràng, giáo xứ được xây dựng trên một thực tại thần học, vì nó là một ‘cộng đoàn Thánh Thể.’” Thực tại này đòi có một sự truyền thông thích hợp trên cơ sở giáo xứ.

4.1.1. Linh mục trong vai trò truyền thông

Trong khoa Thần học Mục vụ cũ, mọi sự được tập trung vào người linh mục và việc đào luyện mục vụ của họ. Từ ít lâu nay, cái nhìn thần học ấy không còn nữa. Tuy nhiên, bất chấp điều đó, linh mục vẫn còn là một diện mạo trung tâm trong việc truyền thông mục vụ của Hội Thánh. Suy cho cùng, họ được thụ phong cho thừa tác vụ này, để làm cho Đức Kitô hiện diện giữa dân Người trong việc chia sẻ Lời Chúa, các bí tích, đặc biệt bí tích Thánh Thể, và để dẫn dắt dân Người. Trong nhiệm vụ này, không ai khác có thể thay thế họ bằng bất cứ thừa tác vụ nào khác, và không ai khác có thể làm thay công việc truyền thông của họ.

Việc truyền thông của linh mục đòi hỏi trước tiên chính bản thân họ phải là con người đầy Thánh Thần, để bảo đảm rằng tất cả những gì họ truyền thông và chia sẻ đều đến từ Thánh Thần này. Thật vậy, một mẫu truyền thông Kitô giáo coi linh mục như là một sứ giả mang một thông điệp lớn hơn bản thân họ: một thông điệp do chính Thánh Thần truyền đi. Linh mục là một con người thiêng liêng và sứ vụ của họ trước hết và trên hết là một sứ vụ thiêng liêng mà giáo dân có quyền mong đợi nơi họ. Về phương diện này, linh mục là người ‘nối dài’ sự hiện diện của Đức Kitô giữa dân Người và vì vậy cần phải dùng đường lối truyền thông của chính Đức Kitô. Họ phải hành động theo cách Đức Giêsu đã hành động và truyền thông theo cách Đức Giêsu đã truyền thông. Những gì đã nói trên kia (I, 5.2) về việc đào luyện truyền thông và gương truyền thông của các vị đại thánh truyền thông như Thánh Augustinô, Thánh Grêgoriô Cả, và Thánh Phanxicô Salê, được áp dụng đặc biệt ở đây. Quyển sách của Willi Lambert về “Thánh Inhaxiô Loyola nhà truyền thông” (1999, tr. 95.228-238) trình bày cho chúng ta chiều kích truyền thông của đời sống linh mục với những đòi hỏi rất cam go. Ông cho chúng ta thấy một cách chi tiết Thánh Inhaxiô đã truyền thông như thế nào trong tư cách một linh mục và bề trên, ngài đã phát triển và chứng tỏ các thái độ truyền thông cơ bản để vun trồng lòng khiêm tốn, lòng yêu thương và kiên nhẫn, lòng kính trọng, lắng nghe, tin tưởng và chú ý tới người khác như thế nào. Các yếu tố cơ bản của một sự truyền thông nhân bản tốt phải là thành phần cấu tạo của mọi linh mục và Thánh Inhaxiô là một gương sáng cho chúng ta thấy phải sống và thực hành nó như thế nào. Các yếu tố cơ bản này của sự truyền thông nhân bản cũng được phản ánh trong sự truyền thông của một cộng đoàn dựa trên kinh nghiệm truyền thông trong kinh nguyện.

Trong vai trò của người truyền thông, linh mục phải có thái độ đặc biệt sẵn sàng đối với người cần tìm đến mình hay được giao phó cho mình chăm sóc. Linh mục phải có khả năng thấu hiểu hoàn cảnh của họ, các nhu cầu và mong đợi của họ. Mọi sự truyền thông tốt đều bắt đầu với sự hiểu biết những người nghe mình, những người tiếp nhận truyền thông. Chỉ khi một linh mục có thể và muốn ‘hoà mình’ với đối tác truyền thông của mình, họ mới có thể là một người truyền thông mục vụ tốt. Ví dụ nếu là một linh hướng, họ phải ý thức rằng họ không phải là ‘ông chủ’ hay người biết rõ công thức cho mọi sự. Đúng hơn họ là một người bạn đồng hành và cùng đi với người được linh hướng dù khi trời nắng hay mưa, thậm chí cùng đi cả trong bùn lầy và trong thung lũng nước mắt và tội lỗi. Là một mục tử, họ đã thấy trước được những nhu cầu của các con chiên của mình, và là người lãnh đạo, họ biết phải đi đâu. Họ đạt được tất cả những điều này nhơ phương pháp hành động như một người bạn đồng hành, giúp dân của mình nhìn thấy ánh sáng và đường đi trước, rồi cùng đi với họ trong Thần Khí của Chúa.

Truyền thông Mục vụ trước hết và trên hết là một thái độ và một thói quen nội tâm được hình thành qua một đời sống thiêng liêng sâu xa. Việc này đã phải được bắt đầu từ thời chủng viện và lý tưởng là phải được bắt đầu từ khi còn đang lớn lên trong gia đình. Việc đào luyện trong chủng viện phải quan tâm phát triển và kiện cường các thái độ ấy, và phải bằng mọi cách giúp loại trừ những gì cản trở sự phát triển ấy. Người linh mục chỉ có thể là một người truyền thông và lãnh đạo tốt nếu có những thái độ cơ bản là cởi mở, kiên nhẫn, sáng suốt, thận trọng và khôn ngoan, nhất quán và dấn thân. Trước hết họ phải phản chiếu Đức Kitô trước khi áp dụng các quy tắc và luật lệ khác. Có nghĩa là trước hết và trên hết, mọi sự phải được đặt nền trên đời sống thiêng liêng, nghĩa là sự tiếp xúc cá nhân của họ với Thiên Chúa. Chứng tá bằng đời sống của họ cũng là sự truyền thông đầu tiên của họ cho người khác. Nếu người ta nhìn thấy Đức Kitô nơi họ, người ta sẽ đổ xô đến với họ và cho họ cơ hội để ‘truyền thông’ với người ta, đôi khi tới mức mà họ cảm thấy quá sức để gánh vác.

Cách truyền thông mà người linh mục phải có đã được Đức Giáo Hoàng Grêgoriô Cả mô tả trong “Quy luật Mục vụ” nổi tiếng của ngài năm 591 như sau: Trong hoạt động truyền thông của mình, người truyền thông mục vụ “phải thích ứng với tính cách của người nghe, để phù hợp với các nhu cầu của họ, nhưng không bao giờ rời xa nghệ thuật xây dựng chung. Vì tôi có thể nói tâm trí của những người nghe chẳng khác gì những sợi dây đàn hạc mà người chơi đàn giỏi gảy đủ những nốt khác nhau mà không gây chói tai. Đó là lý do khiến các dây đàn tạo ra một giai điệu nhịp nhàng, vì mặc dù được gảy bằng cùng một chiếc móng gảy, nhưng không cùng một kiểu gảy. Vì vậy, mọi người giảng thuyết cũng thế, để xây dựng mọi người trong cùng một đức bác ái duy nhất, họ phải chạm vào con tim của người nghe bằng cách giảng cùng một giáo lý duy nhất, nhưng không phải chỉ có một lời khuyến dụ cho mọi người” (1950, 89t).

Linh mục cũng cần một sự hiểu biết cơ bản về hoạt động của các phương tiện truyền thông hiện đại. Họ phải biết và có khả năng đánh giá một cách có phê phán các tin tức trên báo chí, các ấn phẩm và trên Internet, chất lượng của các chương trình Truyền thanh và Truyền hình, cũng như các tiêu chuẩn của một phim tốt. Trong lĩnh vực này, họ cần có một sự đào tạo về giáo dục truyền thông ở cấp đại học. Ngoài ra, họ cũng phải học cách sử dụng các phương tiện truyền thông khác nhau trong hoạt động mục vụ của mình. Điều này bao gồm việc đào tạo và thực hành các kỹ năng như viết tin tức, là kỹ năng cần thiết cho bản tin giáo xứ, và cả việc đào tạo về kỹ năng viết kịch bản và làm các chương trình truyền thanh và truyền hình đơn giản. Thành thạo một số kỹ năng này thì rất có lợi, nhưng chúng luôn luôn phải đặt nền trên những yếu tố cơ bản về truyền thông nhân văn và thiêng liêng.

Gaston Roberge đã tóm tắt việc đào tạo cơ bản và mục vụ về Phương tiện Truyền thông của người linh mục thời đại mới trong các điểm sau đây (Jivan, Phụ trương, Tháng 12-1996, tr. 3):

Về các thói quen cơ bản, linh mục:

* thể hiện tính kỷ luật khi sử dụng các phương tiện truyền thông.

* chịu trách nhiệm về cung cách mình tiếp nhận các nội dung do mình tự chọn trên các phương tiện truyền thông.

* sử dụng thời gian nghe và xem một cách có lợi.

* sử dụng các phương tiện truyền thông không chỉ để giải trí, nhưng để thêm hiểu biết, mở rộng trí tuệ, mở rộng tầm nhìn, nhờ đó đạt được một sự phát triển văn hoá quân bình.

* yêu mến và thực hành việc đọc sách, học hỏi, thinh lặng, suy niệm để làm thuốc giải độc chống lại việc phí phạm thời giờ và sa sút tinh thần.

Họ đã đắc thủ một số khả năng trí tuệ. Họ

* biết các phương tiện truyền thông tác động thế nào trên các tầng lớp xã hội.

* ý thức về các kết nối của các phương tiện truyền thông với thông tin, quảng cáo, dư luận quần chúng, sử dụng giờ rảnh rỗi.

* có tinh thần phê bình sáng suốt và tinh tế, không bị rơi vào những cạm bẫy của các phương tiện truyền thông.

* có những chọn lựa sáng suốt giữa các chương trình được cống hiến cho mình.

* có những phán đoán phê bình hợp lý về các thông điệp và các giá trị được đề nghị bởi các chương trình truyền thông.

* nhận ra và đánh giá đúng các kiểu và hình thức diễn tả và truyền thông khác - lịch sử, văn học, kịch nghệ, các nghệ thuật tưởng tượng, âm nhạc - và so sánh các nội dung trình bày của các phương tiện truyền thông với các loại hình này.

* quen thuộc với nhiều loại tường thuật tin tức từ các phương tiện truyền thông, về các bi kịch và các vấn đề trong thế giới thực bên ngoài.

* quen thuộc với các kiểu thảo luận nhóm trong việc phê bình các chương trình và các thông điệp truyền thông.

Họ cũng đã phát triển một đường lối mục vụ. Họ

* có khả năng huấn luyện người khác về kỷ luật bản thân.

* có thể huấn luyện giáo dân về việc sử dụng đúng đắn các phương tiện truyền thông, qua việc dạy giáo lý, giảng... và làm tư vấn, giải tội, linh hướng.

* có thể sử dụng các phương tiện truyền thông để làm việc tông đồ.

* có thể thực hiện các sự điều chỉnh trong hoạt động mục vụ trong một thế giới bị chi phối về tâm lý và xã hội bởi các phương tiện truyền thông và bởi hoạt động điều khiển từ xa và tin học, và

* đã đạt được kỹ năng trong việc sử dụng các phương tiện truyền thông cho hoạt động mục vụ.

Cách riêng, họ

* có thể nói trước micrô, máy quay phim, và máy quay từ xa

* có kỹ năng cử hành các lễ nghi phụng vụ

* có thể phỏng vấn, được phỏng vấn

* viết tin tức và các mục chuyên đề

* có thể viết kịch bản cho truyền thanh và truyền hình

* có thể viết báo

* quen và có thể đạo diễn kịch

* có thể sử dụng các phương tiện truyền thông, đĩa, băng cassette tiếng và hình, ảnh, hình chiếu và các phim ngắn.

Bốn ‘mẫu diễn giải của Hội Thánh’ của Bacani (xem ở trên, I,4) cũng có giá trị cho việc truyền thông của linh mục. Cách họ nói, các từ họ sử dụng, phong cách của họ và các hoàn cảnh cũng quyết định họ được tiếp nhận như thế nào.

Các nguyên tắc lãnh đạo hiện đại

Linh mục trong vai trò người truyền thông có thể học hỏi từ thế giới doanh nghiệp ngày nay cách xử lý các sự việc và trở thành một người lãnh đạo thực sự tốt, giỏi giao tiếp và cởi mở. Vai trò lãnh đạo này có thể được trợ giúp bởi các ý tưởng sau đây:

Việc quản lý doanh nghiệp ngày nay không nhắm nhiều tới khách hàng là mục tiêu cuối cùng cho bằng tập trung vào các người cộng sự và các trung gian quản lý. Nếu các người cộng sự trực tiếp có động lực thúc đẩy, họ biết rõ công ty và hoạt động của công ty, thì họ sẽ là những người bán hàng tốt nhất. Vì vậy, những người lãnh đạo phải phát triển và sử dụng nguyên tắc lãnh đạo hiện đại này: phải gây ý thức và tạo động lực cho các người cộng sự để làm họ trở thành những người đồng chịu trách nhiệm về công ty. Những người cộng sự nâng đỡ công ty không phải là những người chỉ làm theo các mệnh lệnh, mà là những con người tự do và phát triển sự dấn thân và trách nhiệm của mình. Các người cộng sự hiện đại muốn có sự tự chủ và tự thể hiện mình. Một việc quản lý biết nghĩ đến và đáp ứng các nhu cầu này sẽ phát triển một công ty năng động với những người cộng sự giàu động lực và cuối cùng họ là những “nhân viên bán hàng” tốt nhất.

Các nguyên tắc lãnh đạo ngày nay mà giúp phát triển những cộng sự viên có động lực và dấn mình hăng say như thế có thể là:

1.  Lãnh đạo phải tạo ý nghĩa. Một cộng sự viên phải hiểu tại sao làm những công việc ấy và vì thế họ có thể dấn mình vào một công việc có ý nghĩa. Việc này cần có sự trong sáng và đủ thông tin.

2.  Lãnh đạo phải cung cấp thông tin. Chỉ khi có đủ thông tin, một cộng sự viên mới có thể hành động một cách có trách nhiệm và có cái nhìn về tương lai.

3.  Các cộng sự viên phải được cống hiến nhiều cơ hội tối đa để hợp tác và đồng sáng tạo. Sự dấn mình giúp phát huy tính cách, động lực, tinh thần trách nhiệm, suy tư và dự phóng những nhu cầu và tiềm năng tương lai.

4.  Phải cổ vũ những phê bình trong sáng và xây dựng. Vì vậy, người lãnh đạo sẽ cho nhận xét về một sự kiện cụ thể chứ không phải về một người. Tạo cơ hội để có những phản hồi sáng tạo là yếu tố nòng cốt cho thành công. Thái độ này có thể học được. Lời khen tạo động lực nhiều hơn là bất cứ lời phê bình chỉ trích tiêu cực nào.

5.  Quý trọng nhân vị của người cộng tác là yếu tố cơ bản. Hành động giống như một con số trong một trò chơi sẽ không tạo được động lực nhưng sẽ giết chết sáng kiến.

6.  Tài chuyên môn và trí thông minh mà thôi không đủ. Trưởng thành tâm lý và nhân bản mới là điều thiết yếu cho mọi tiến bộ và thành công.

7.  Các cơ cấu và các sự kiện hiện hữu phải luôn luôn được thẩm định với óc phê bình bởi vì không có gì mà không thể cải thiện.

8.  Giải quyết mâu thuẫn và xung đột cần phải có sự hợp tác. Nếu một cộng sự viên dấn mình vào việc tìm kiếm giải pháp, họ sẽ gắn bó nhiều hơn với các quyết định.

9.  Các lãnh đạo phải sống các nguyên tắc này trong đời sống cá nhân của mình. Chỉ khi họ nêu gương bản thân mình, họ mới có thể ảnh hưởng và tạo động lực cho người khác. Lãnh đạo có nghĩa là phục vụ chứ không phải là thống trị hay chơi một “trò chơi quyền lực”.

10.   Phải phát triển và đòi hỏi nơi người cộng sự tinh thần tự chịu trách nhiệm. Mục tiêu của mọi việc lãnh đạo là tạo ra những cộng sự viên tự do và có trách nhiệm, hiểu biết vai trò và sự cống hiến của mình cho mục tiêu chung. 

4.1.2. Giáo xứ như một tập đoàn truyền thông

Giáo xứ là một tổ chức gồm những con người cùng xây dựng một cộng đoàn, ý nghĩa này được lộ rõ nơi các thành viên giáo xứ cũng như các hoạt động của họ. Bất kể một giáo xứ được hình thành dựa trên cơ sở địa lý hay trên cơ sở con người, nó không thể tránh bị người khác nhìn vào và đánh giá. Vì vậy, giáo xứ xét như một tổ chức giáo hội thì trở thành căn cước công cộng của nó. Người ta nhìn vào và đánh giá những gì được làm và được làm như thế nào, và từ đó họ có ý kiến và ấn tượng riêng của họ về giáo xứ. Một giáo xứ hay một tổ chức tương tự của giáo hội không thể không bị nhìn vào và ‘truyền thông’ cho các thành viên của mình cũng như cho người ngoài. Thỉnh thoảng khi nói đến các phương tiện và kinh nghiệm truyền thông trong giáo xứ mình, người ta thường nói: “Giáo xứ chúng tôi sinh hoạt như thế đấy”. Việc truyền thông ấy đa phần chịu ảnh hưởng mạnh bởi cung cách và các việc thực hành truyền thông của cha xứ, nhưng cũng bởi các lãnh đạo khác của các đoàn thể trong giáo xứ. Như linh mục-người truyền thông phải bám chặt vào Chúa Thánh Thần, thì việc truyền thông tập đoàn của giáo xứ cũng phải đặt nền trên đời sống thiêng liêng, đời sống và kinh nghiệm của mình với Chúa. Ví dụ, nếu một giáo xứ cử hành một việc phụng vụ đúng mực và thuyết phục, việc cử hành ấy sẽ được chú ý đến không chỉ bởi các thành viên của mình mà còn bởi giáo dân của các giáo xứ khác và những người ngoài. Có một nền truyền thông mục vụ của một giáo xứ trong tư cách tập đoàn theo nghĩa là đời sống và các việc phục vụ của cộng đoàn giáo xứ phải được phát triển dưới nhãn quan truyền thông.

Truyền thông đối nội

Truyền thông đối nội của một giáo xứ được quyết định một cách cơ bản bởi cách mà các thành viên đối xử với nhau và truyền thông cho nhau. Cha xứ truyền thông thế nào với giáo dân của mình? Các thành viên của hội đồng giáo xứ và các đoàn thể khác của giáo xứ đối xử thế nào với nhau và với các thành viên khác của giáo xứ? Nếu cha xứ là một người giỏi truyền thông với đầy sự cởi mở, tôn trọng và tin tưởng, và cũng để cho những người khác lãnh trách nhiệm, nếu ngài để cho giáo dân được tự do phát triển các ý tưởng của họ và cổ vũ sức sáng tạo, thì giáo xứ sẽ được lợi và trở thành một cơ thể sống động với những con người cư xử với nhau với lòng kính trọng và tinh thần đồng trách nhiệm. Nó sẽ tạo nên một sự tin tưởng lẫn nhau, làm cho cộng đoàn trở thành một cộng đoàn Kitô đích thực giống như cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên trong sách Công vụ Tông đồ. Lắm khi điều đáng cho người ta quan tâm không phải là chúng ta làm cái gì mà là làm như thế nào và truyền thông như thế nào. Câu ngạn ngữ Đức: “Tiếng la trong rừng la theo cách nào thì dội lại theo cách ấy” cũng được áp dụng ở đây. Một cộng đoàn giáo xứ sống mãnh liệt sự hiệp thông và truyền thông với Đức Kitô sẽ ảnh hưởng tới những người có liên quan.

Tất cả các quy tắc và kinh nghiệm về ‘truyền thông tập đoàn’ và ‘truyền thông tổ chức’ cũng được áp dụng cho một giáo xứ. Một giáo xứ là một đơn vị tập đoàn và một tổ chức nhỏ với một số cơ cấu và phương tiện truyền thông cần phải được tôn trọng. Thông thường việc truyền thông ở đây diễn ra theo các trách nhiệm và có thể khởi sự với cha xứ, hội đồng giáo xứ hay các trưởng của các hội đoàn khác nhau trong giáo xứ. Tuy nhiên, điều quan trọng là việc truyền thông này không chỉ diễn ra theo hàng dọc trên-dưới nhưng theo hàng ngang, lôi kéo mọi người vào một tinh thần trách nhiệm giống nhau. Truyền thông theo hàng dọc không luôn luôn là cách truyền thông đúng; cách truyền thông chia sẻ-tham gia thì tốt hơn (x. Eilers 2002, tr. 28tt). Các người truyền thông là những đối tác chứ không phải những nhân viên thuộc quyền.

Xem thêm chi tiết về các phương tiện truyền thông đối nội và đối ngoại của giáo xứ trong Chương 5.

Bản sắc tập đoàn của một giáo xứ cũng được phản ánh trong các thái độ sau đây của giáo dân trong giáo xứ (Karl Hoeller, BISCOM I, 1997, bản thảo):

1. Một sự ý thức nhiều hơn của các thành viên (“Trong giáo xứ Thánh Arnold, chúng tôi...”).

2. Một sự tự hào về giáo xứ (“Giáo xứ chúng tôi làm hay là...”).

3. Một sự đồng hoá mình với giáo xứ (“Tôi là giáo dân của giáo xứ Thánh Arnold”).

4. Một sự gắn bó sâu xa với giáo xứ (“Rất hạnh phúc được thuộc về giáo xứ...”).

5. Một sự dấn thân mạnh hơn trong giáo xứ (“Công việc của giáo xứ Th. Arnold tuỳ thuộc vào tôi cũng như...”).

Truyền thông đối ngoại

Truyền thông đối ngoại của một giáo xứ liên quan tới những người không phải là thành viên trực tiếp của đơn vị giáo xứ hiện hữu. Họ là ‘người ngoài’, tuy nhiên phải coi họ như những đối tác trong tinh thần truyền thông mục vụ cởi mở. Thành phần này có thể là giáo dân của các giáo xứ khác mà ta có thể cùng với họ tổ chức các hoạt động chung trong tinh thần huynh đệ, có những mối quan tâm và kinh nghiệm chung. Chẳng hạn có thể có một bản tin giáo xứ được xuất bản chung cho nhiều giáo xứ xung quanh. Nhiều hoạt động khác có thể được tổ chức chung nếu có một mối quan tâm chung.

Truyền thông đối ngoại cũng liên quan tới các Kitô hữu thuộc các hệ phái và các giáo hội khác hay các tổ chức giáo hội trong hay gần địa hạt của giáo xứ. Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền thông Xã hội đã xuất bản các hướng dẫn và tiêu chuẩn về hợp tác đại kết (1989), có thể có ích trong lĩnh vực này (x. Eilers, 1997, tr. 151-158). Các mối quan tâm và sinh hoạt chung này “làm sáng tỏ sự thống nhất đã có giữa các giáo hội và các cộng đoàn Kitô giáo”, văn kiện nói như thế và tiếp: “Một thái độ như thế chỉ có thể làm gia tăng sự tin tưởng vào công cuộc và các phương pháp rao giảng tmu để phục vụ Nước Chúa”.

Sự hợp tác đại kết này “có thể được thực hiện trong mọi khía cạnh của việc truyền thông xã hội. Tự nó là một chứng tá cống hiến cho thế giới... Đôi khi điều này đòi hỏi sự tham gia chung của các người truyền thông Công giáo trong các sáng kiến truyền thông của các giáo hội và cộng đoàn Kitô giáo khác, và của các Kitô hữu khác trong các dự án Công giáo, cũng như trong việc đào tạo các nhóm Kitô hữu hoạt động trong các tổ chức truyền thông thế tục” (số 6-7). “Khi xét là thích hợp, các dự án chung có mục tiêu là cho phép người Kitô hữu cống hiến một chứng tá chung về Đức Kitô” (số 9). Trong truyền thông mục vụ, sự hợp tác này không chỉ liên quan tới các dự án truyền thông chuyên nghiệp, mà cả sự hợp tác trong lĩnh vực truyền thông mục vụ, ví dụ như các dịch vụ tư vấn chung và sự hỗ trợ lẫn nhau trong sứ vụ mục vụ khi hoàn cảnh cho phép, chẳng hạn như các hoạt động tông đồ trong các nhà tù hay tông đồ giới trẻ.

Truyền thông đối ngoại cũng vươn ra tới các tổ chức tế tục và các tổ chức trong và ngoài giáo xứ. Hoạt động này bao gồm sự hợp tác trong các công trình dân sự và cả sự hỗ trợ các dự án và quan tâm chung trong lĩnh vực thế tục như thành lập các tổ chức dân sự vì lợi ích công cộng hay các quan tâm đặc biệt. Việc tham gia vào các hoạt động truyền thông chung, từ một gánh hát cho tới một sân khấu đường phố, từ một viện bảo tàng cho tới một cuộc thi vẽ tranh, triển lãm công cộng hay các cách thức và phương tiện truyền thông khác, cũng làm cho giáo xứ được công chúng biết đến và góp phần tạo một hình ảnh tích cực về một giáo xứ truyền thông và cởi mở trong cộng đồng rộng lớn hơn.

Về việc sử dụng các phương tiện truyền thông khác nhau cho giáo xứ, xem các chương sau liên quan tới các phương tiện truyền thông như Báo chí, Truyền thanh, Truyền hình, Phim ảnh, Internet...

4.1.3. Các cộng đoàn Kitô hữu nhỏ/cơ bản

Các Cộng đoàn Kitô giáo Cơ bản (‘Basic Christian Community’ - BCC) hay Cộng đoàn Hội Thánh Cơ Bản (‘Basic Ecclesiastic Community’ - BEC) ban đầu được gọi là các ‘Cộng đoàn Kitô giáo Nhỏ’. Các cộng đoàn này có thể tồn tại trong một giáo xứ như là một sáng kiến của giáo xứ, nhưng cũng có thể tồn tại như là một cộng đoàn độc lập với địa hạt của một giáo xứ. Đó là những nhóm ít người cùng chia sẻ đặc biệt đức tin, Lời Chúa và các kinh nghiệm tôn giáo của mình. Họ có thể là một cụm khoảng tám tới mười gia đình của một khu hay các nhóm tương tự tuỳ theo các nhu cầu và điều kiện của họ. Redemtoris Missio (số 51) mô tả họ như là “các nhóm Kitô hữu ở cấp gia đình hay một khung cảnh giới hạn tương tự, cùng tập họp nhau lại để cầu nguyện, đọc Sách Thánh, giáo lý và thảo luận về các vấn đề liên quan tới con người và Hội Thánh nhằm đi tới một sự dấn thân chung”. Họ được coi như “một dấu hiệu về sức sống trong Hội Thánh, một công cụ đào luyện và rao giảng Tin Mừng, và một điểm xuất phát vững chắc dẫn tới một xã hội mới đặt nền trên một ‘văn minh của tình thương’”.

Bằng cách này, các kinh nghiệm đức tin được đem trực tiếp đến cho dân chúng và được áp dụng vào các nhu cầu và nguyện vọng cụ thể của họ. Đồng thời chúng cống hiến một khả năng truyền thông cho những người mà tự mình không thể nói hay diễn tả ý tưởng của mình. Ngoài ra, chúng cũng giúp phát triển một tinh thần sống và làm việc chung với nhau, giúp đỡ và quan tâm lẫn nhau, là những điều mà một giáo xứ đông người không thể cống hiến cho họ. Việc truyền thông trong các nhóm loại này chủ yếu là áp dụng phương thức truyền thông của các nhóm truyền thông nhỏ: mọi người đều biết nhau và mọi người đều thấy nhau, có thể phản ứng ngay lập tức và nhờ đó có thể góp phần đáp ứng các nhu cầu của nhóm cũng như của cá nhân khi chúng xuất hiện trong lúc chia sẻ. Các phương tiện kỹ thuật truyền thông hiện đại ít khi được dùng tới, và nếu có được dùng thì chủ yếu chỉ là để kích thích sự tương tác của nhóm nhiều hơn. Trong các giáo xứ lớn, cha xứ hay các người hoạt động mục vụ khó có thể biết và chăm lo cho từng người, còn các cộng đoàn nhỏ như thế này tạo ra được tinh thần thuộc về nhóm. Sự quan tâm lẫn nhau và truyền thông thường xuyên với nhau giúp tăng cường đức tin và cũng phát triển khả năng làm chủ đời sống. Thế nên nó cống hiến cho việc truyền thông mục vụ các khả năng đặc biệt để vượt qua tình trạng vô danh của nhiều phương tiện truyền thông (đại chúng) hiện đại. Các Cộng đoàn Kitô giáo Nhỏ là một cách diễn tả đặc biệt về ‘mẫu truyền thông’ của một Hội Thánh truyền thông theo Avery Dulles (xem ở trên, I, 4.2 và ở dưới, II, 5.2 về truyền thông nhóm. Xem thêm chi tiết về truyền thông nhóm trong Eilers, 2002, tr. 195-211).

4.2. Truyền thông ở cấp giáo phận

4.2.1. Giám mục trong vai trò truyền thông

Trong địa vị phẩm trật của mình, các giám mục là những người quan trọng đầu tiên và trên hết trong sứ vụ mục vụ và vì thế phải đặc biệt quan tâm tới truyền thông mục vụ của họ. “Giám mục đoàn là những người kế vị Tông đồ đoàn trong vai trò thầy dạy và mục tử...”, Sắc lệnh Christus Dominus (số 8) của Vatican II về Giám mục trích văn kiện cơ bản của Vatican II về Hội Thánh Lumen Gentium (số 22). Ý tưởng này còn được triển khai thêm qua việc vạch ra nghĩa vụ rao giảng Tin Mừng và tông đồ của các ngài. Đó là các ngài có nghĩa vụ đặc biệt làm gương mẫu về truyền thông mục vụ. Trong trách nhiệm này, các ngài là những người đầu tiên phải thực hành các quy luật cơ bản của truyền thông nhân bản trong việc đối xử với tất cả những người được giao phó cho các ngài.

Một cách đặc biệt, nghĩa vụ này được phản ánh trong cách truyền thông của các ngài với các linh mục của mình, những người mà các ngài phải coi là “những cộng sự viên và cố vấn không thể thiếu trong thừa tác vụ và nhiệm vụ giảng dạy, thánh hoá và chăn dắt Dân Chúa” (Presbyterorum Ordinis, số 7). Các giám mục phải đối xử với các linh mục như anh em và bạn bè, và phải hết sức quan tâm tới lợi ích vật chất và thiêng liêng của họ... đặc biệt các ngài mang trên vai gánh nặng của việc thánh hoá các linh mục của các ngài...” và phải thích lắng nghe và tham khảo ý kiến các linh mục. Ở đây có tất cả các yếu tố của sự truyền thông nhân bản đúng đắn và hết mình, và giám mục cũng phải phát triển các yếu tố này trong quan hệ với mọi người được giao phó cho các ngài. Theo lời của Christus Dominus (số 13): Các giám mục “có bổn phận đặc biệt phải đến với mọi người, kêu gọi và cổ vũ các cuộc đối thoại với họ. Trong các cuộc đối thoại thuộc viễn tượng cứu độ này, để chân lý luôn luôn liên kết với bác ái, kiến thức đi liền với tình yêu, cần phải làm nổi bật tính chất trong sáng của ngôn ngữ, cùng sự khiêm tốn và lòng nhân hậu, cũng như sự thận trọng đúng mức, nhưng đầy tin tưởng, vì khi sự tin tưởng hỗ trợ tình bạn hữu thì cũng liên kết các tâm hồn”.

Trong truyền thông, các giám mục cũng phải “cố gắng sử dụng các phương pháp khác nhau hiện có ở thời đại chúng ta để rao giảng giáo thuyết Kitô giáo”, gồm việc giảng thuyết và huấn giáo, nhưng cũng gồm việc “giảng dạy trong các trường học, đại học, các cuộc hội thảo và hội họp đủ loại”. Nhưng cũng có cả các phát biểu công khai mà giám mục có thể đưa ra “để bình luận về các sự kiện”, và sử dụng “báo chí và các phương tiện truyền thông đại chúng khác”.

Về thái độ cơ bản của giám mục trong vai trò truyền thông mục vụ, Christus Dominus (số 16) khuyến cáo rằng các giám mục “hãy sống giữa dân mình như một người phục vụ, nghĩa là như một chủ chăn hiền từ biết các con chiên mình và các con chiên cũng biết chủ chăn, và như người cha đích thực tỏ lòng yêu thương lo lắng cho hết mọi người và mọi người tỏ lòng tri ân tuân phục quyền hành Thiên Chúa đã ban cho các ngài. Các ngài hãy qui tụ đoàn chiên của mình thành một gia đình đông đủ và cổ võ để mọi người đều ý thức nhiệm vụ riêng mà sống và hoạt động trong sự hiệp thông bác ái”.

Để hiểu rõ hơn đường lối và nhu cầu truyền thông của mình, các giám mục có thể thấy hữu ích khi tìm hiểu về những mẫu khác nhau của một Hội Thánh truyền thông như được triển khai bởi Avery Dulles dựa trên các văn kiện của Công Đồng Vaticanô II. Cũng rất hữu ích khi xem 4 “mẫu diễn giải của Hội Thánh” của Giám mục Teodoro Bacani (xem ở trên: I, 4): Phải chăng tôi muốn đưa ra một phát biểu ‘tiên tri’ theo tinh thần của mẫu phẩm trật hay mẫu thần học của Dulles, hay mối quan tâm mục vụ của tôi hợp với mẫu bí tích và cộng đoàn của Dulles?

Trong giáo phận mình, giám mục có trách nhiệm đặc biệt về mọi hoạt động truyền thông, trên thực tế ngài là người chịu trách nhiệm tối thượng và duy nhất, như được nói rõ trong các văn kiện khác nhau của Hội Thánh, đặc biệt Sắc lệnh Inter Mirifica của Vatican II về Truyền thông Xã hội (số 20).

Trong văn kiện đầu tiên của Hội Thánh về truyền thông hiện đại ở thế kỷ 20, Thông điệp Vigilanti Cura của Đức Giáo hoàng Piô XI (1936) về điện ảnh, bổn phận của các giám mục về hoạt động truyền thông đã được nhấn mạnh. Thông điệp nói “các giám mục trên toàn thế giới Công giáo có bổn phận liên kết với nhau để cảnh giác trước loại hình giải trí và thông tin có ảnh hưởng tràn lan và mạnh mẽ này, để có thể ngăn cấm những phim ảnh xấu phạm đến thuần phong mỹ tục và các tình cảm tôn giáo...”.

Mạnh hơn nữa, Thông điệp nói rằng các giám mục “có bổn phận quan tâm tới mọi hình thức giải trí thanh tao lành mạnh vì họ phải chịu trách nhiệm trước mặt Chúa về luân lý của dân mình cả trong thời gian rảnh rỗi…”.

“Nếu các giám mục trên thế giới đồng tâm chia sẻ nhiệm vụ cảnh giác đầy khó khăn này đối với phim ảnh - và chúng tôi biết rõ nhiệt tình mục vụ của họ về điểm này - chắc chắn họ sẽ thực hiện được một công việc vĩ đại là bảo vệ luân lý của dân trong những lúc rảnh rỗi và giải trí của dân. Họ sẽ chinh phục được sự tán thưởng của mọi người có lý lẽ thẳng thắn, Công giáo cũng như không Công giáo, và họ sẽ giúp bảo đảm rằng một lực lượng lớn của thế giới - phim ảnh - sẽ được hướng tới mục đích cao đẹp là cổ vũ những lý tưởng cao cả nhất và những chuẩn mực đúng nhất của cuộc đời”.

Về cơ quan của Hội Thánh trông nom lĩnh vực phim ảnh, “các giám mục tại mỗi nước sẽ cần phải thiết lập một văn phòng thường trực quốc gia về kiểm duyệt”.

Trong Thông điệp Miranda Prorsus năm 1957 của Đức Piô XII về Radiô, TV và Điện ảnh, Đức Giáo Hoàng nhắc nhở các giám mục “đặc biệt quan tâm trông nom để thông qua các văn phòng quốc gia, được đặt dưới quyền kiểm soát của quý vị, ... các thông tin về các nội dung truyền thông phải được chia sẻ cho các thành phần công dân khác nhau có quan tâm tới vấn đề này...”.

Công đồng Vatican II trong Sắc lệnh Inter Mirifica về Truyền thông Xã hội đã nhấn mạnh khá rõ các bổn phận của các giám mục đối với truyền thông xã hội: “Các giám mục có bổn phận lưu tâm đến các công trình và sáng kiến thuộc ngành này trong giáo phận mình. Các ngài phải cổ võ và nếu liên quan đến việc tông đồ chung, phải phối hợp chung, kể cả những tổ chức thuộc quyền điều khiển của các tu sĩ miễn trừ” (số 20). Về các văn phòng quốc gia, sắc lệnh nói rằng “tại mỗi nước, việc điều khiển các văn phòng này phải được giao cho các uỷ ban giám mục hay các giám mục được chỉ định làm nhiệm vụ này” (số 21).

Các Nghị phụ Công Đồng trong sắc lệnh Inter Mirifica đã yêu cầu soạn ra một Huấn thị Mục vụ chi tiết hơn về các mối quan tâm mục vụ của Hội Thánh. Trong Huấn thị Communio et Progressio, được công bố ngày 23-3-1971, các điểm sau đây được nói một cách đặc biệt liên quan tới trách nhiệm của các giám mục:

* Kế hoạch mục vụ trong truyền thông: 

“Đánh giá cẩn thận về toàn bộ các phương tiện truyền thông, có kế hoạch thận trọng và sáng suốt cho hoạt động mục vụ và trong mọi công cuộc tông đồ, tất cả công việc này đều là thuộc lĩnh vực hợp pháp của giáo quyền. Nhưng việc thực thi các hoạt động này cũng cần dựa vào sự tư vấn của các chuyên gia trong các ngành truyền thông khác nhau. Theo các qui tắc cơ bản trong Inter Mirifica, đây là bổn phận của mỗi giám mục trong mỗi giáo phận, của một uỷ ban giám mục hay một giám mục đặc trách tại mỗi quốc gia, và của Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội cho Hội Thánh toàn cầu (số 165).

* Chuẩn bị và cử hành Ngày Thế giới Truyền thông do Vatican II thiết lập.

“Các cấp giáo quyền (nói ở số 165) sẽ hết sức nâng đỡ việc chuẩn bị và cử hành... Các cấp giáo quyền sẽ trình lên các Hội đồng Giám mục các dự án tài trợ cho hoạt động mục vụ trong lĩnh vực Truyền thông Xã hội” (số 167).

* Các giám mục phải có sự lưu tâm sâu sắc và tham vấn.

“Các cấp giáo quyền sở tại cần có sự lưu tâm sâu sắc về lĩnh vực tông đồ truyền thông xã hội. Họ cần tham vấn các linh mục và giáo dân...” (số 168).

* Thiết lập các văn phòng quốc gia và bảo đảm sự hợp tác quốc tế.

“Một văn phòng quốc gia về truyền thông xã hội phải được mở tại mỗi quốc gia. Văn phòng này có thể chia thành các ban chuyên môn có quyền tự chủ hợp lý cho mỗi ngành truyền thông. Hoặc có thể mở các văn phòng riêng cho mỗi ngành như báo chí, điện ảnh và truyền thanh truyền hình hoạt động gắn bó với nhau. Bất luận theo phương thức nào, toàn thể hoạt động tông đồ này phải được đặt dưới một sự điều hành chung duy nhất” (x. IM, số 20).

Uỷ ban Giám mục về Truyền thông Xã hội hay Giám mục đặc trách chịu trách nhiệm điều hành mọi hoạt động của các văn phòng quốc gia. Các vị này cũng vạch ra các hướng dẫn chung cho việc phát triển hoạt động tông đồ truyền thông xã hội ở cấp quốc gia. Họ sẽ giữ mối tiếp xúc với các Uỷ ban Giám mục quốc gia khác và hợp tác với Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông” (số 172).

Huấn thị Mục vụ thứ hai, Aetatis Novae (1992), ra đời 20 năm sau Huấn thị Communio et Progressio, chú trọng đặc biệt về kế hoạch mục vụ. Huấn thị nói về các giám mục như sau:

“Nhìn nhận giá trị và sự thúc bách của các đòi hỏi của hoạt động truyền thông, các giám mục và các vị khác lo việc phân phối các nguồn nhân lực và tài lực có giới hạn của Hội Thánh phải dành cho nhiệm vụ này một ưu tiên cao, đồng thời lưu ý tới các hoàn cảnh riêng của mỗi nước, mỗi vùng và mỗi giáo phận của mình” (số 20).

Trong cùng đường hướng này, Huấn thị “mạnh mẽ” khuyến cáo “các giáo phận và các HĐGM hay các hội nghị cần đưa yếu tố truyền thông vào mọi kế hoạch mục vụ:

“Khi làm việc này, các giám mục phải tìm sự hợp tác của các nhà chuyên môn trong lĩnh vực truyền thông thế tục và các tổ chức truyền thông của Hội Thánh, đặc biệt các tổ chức quốc tế và quốc gia về điện ảnh, truyền thanh-truyền hình và báo chí” (số 21).

Ngoài ra, Hướng dẫn về một số khía cạnh trong việc sử dụng các phương tiện Truyền thông Xã hội trong việc truyền bá giáo lý Đức Tin” của Thánh Bộ Giáo lý Đức
tin của Toà Thánh (1992) có một đoạn dài nói về “trách nhiệm của các giám mục” và đặc biệt cũng đề cập tới Giáo Luật.

Theo văn kiện Sacrosanctum Concilium (số 20) của Vatican II về Phụng vụ, vị đặc trách về truyền thanh và truyền hình phải “do các giám mục chỉ định”.

4.2.2. Các cơ cấu truyền thông giáo phận

Các cơ cấu truyền thông mục vụ của giáo phận được phản ánh trong các hoạt động và trách nhiệm của giám mục và giáo phận đối với sứ vụ này. Họ phải phục vụ sứ vụ mục vụ của Hội Thánh ở cấp giáo phận dưới sự hướng dẫn và trách nhiệm cao nhất của chính giám mục.

Theo các văn kiện Hội Thánh Inter Mirifica (số 21) và Communio et Progressio (các số 162tt.), phải có một văn phòng giáo phận hay ít là một người đặc trách truyền thông xã hội tương tự như ở cấp quốc gia: “Phải tìm kiếm những người có đào tạo chuyên môn và kinh nghiệm cho công việc này. Cũng phải thiết lập các cơ cấu mục vụ thích hợp, với ngân sách, thẩm quyền và nguồn lực cần thiết” (C&P số 162).

Về hoạt động của các cơ quan này, các văn kiện Hội Thánh đề xuất các hoạt động sau đây, cũng là một nghĩa vụ tương tự như của các văn phòng cấp quốc gia:

1. Bước đầu tiên trong các hoạt động và nhằm phát triển cơ cấu này xa hơn, đó là “đánh giá cẩn thận về toàn bộ các phương tiện truyền thông, có kế hoạch thận trọng và sáng suốt cho hoạt động mục vụ và trong mọi công cuộc tông đồ.” Ở đây các giám mục “cần dựa vào sự tư vấn của các chuyên gia trong các ngành truyền thông khác nhau. Theo các qui tắc cơ bản trong Inter Mirifica, đây là bổn phận của mỗi giám mục trong mỗi giáo phận...” (C&P, số 165).

2. Văn phòng giáo phận phải cổ vũ và phối hợp giữa các kế hoạch truyền thông khác nhau: “Các cấp giáo quyền phải khuyến khích các sáng kiến đua nở tự do trong lãnh vực này, nhưng phải giữ lại quyền hướng dẫn đối với các hoạt động thuộc riêng chức vụ linh mục và các công cuộc mà do hoàn cảnh thời gian và không gian đòi có sự dấn mình của hàng giáo phẩm vì lợi ích của giáo dân” (C&P, số 166). Các sáng kiến của các dòng tu cũng là thành phần của cơ cấu và quan tâm này (x. IM, số 20).

3. Việc “đào tạo các tín hữu, giáo sĩ và giáo dân, qua các khoá học có tổ chức, các cuộc hội thảo, các khoá nghiên cứu và đánh giá phê bình được chuẩn bị bởi các chuyên gia của văn phòng này” cũng là một nhiệm vụ nữa của văn phòng giáo phận này. Họ “cũng phải sẵn sàng tư vấn cho các nhà sản xuất phim ảnh, các chương trình biểu diễn hay truyền thanh truyền hình liên quan tới các đề tài tôn giáo” (C&P, số 170).

4. Văn phòng này cũng phải duy trì tiếp xúc “với thế giới truyền thông xã hội chuyên nghiệp.” Nhờ đó “họ sẽ cung cấp các tư liệu, tư vấn và trợ giúp mục vụ mà các người truyền thông chuyên nghiệp có thể cần đến” (C&P, số 171). 

5. Một bổn phận đặc biệt của văn phòng giáo phận là chuẩn bị và cử hành Ngày Thế giới Truyền thông đã được thiết định bởi Vatican II. Inter Mirifica (số 18) nói rằng “giám mục sẽ cân nhắc để hằng năm dành riêng một ngày” hầu làm cho hoạt động tông đồ “trong lĩnh vực truyền thông xã hội trở nên hữu hiệu hơn”. Các tín hữu được mời gọi cầu nguyện và “đóng góp cho việc tông đồ này”. Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio (số 167) nói thêm rằng “ngày này đã được thiết lập để tôn vinh các nhà chuyên nghiệp về truyền thông xã hội và khích lệ sự hợp tác của họ”.

6. Hơn nữa, mỗi giáo phận phải có “người phát ngôn hay đặc trách báo chí chính thức và thường trực”, có nhiệm vụ “phát hành các tin tức và giải thích rõ ràng các văn kiện của Hội Thánh để dân chúng có thể nắm bắt chính xác ý nghĩa của chúng. Các ngưởi phát ngôn này sẽ cung cấp đầy đủ và không chậm trễ các thông tin về đời sống và hoạt động của Hội Thánh trong lĩnh vực mà họ chịu trách nhiệm” (C&P, số 174).

Tuy nhiên, nhiều chuyên gia cảm thấy rằng ngày nay chỉ cắt cử một người duy nhất cho trách nhiệm này thì không còn đủ nữa. Dứt khoát người phát ngôn này không thể chỉ là một người nhưng phải được hỗ trợ đầy đủ bởi toàn thể cơ quan mà họ đại diện. Trên thực tế, các công ty thời nay có cả một êkíp chứ không chỉ có một người chịu trách nhiệm về lưu lượng thông tin trong công ty cũng như ra thế giới bên ngoài. Vai trò của một người phát ngôn duy nhất là không đủ hiệu quả nếu không được sự hỗ trợ bởi tất cả các ban ngành. Chúng ta không nên quên rằng cả trong các tổ chức của Hội Thánh, việc truyền thông đối nội và đối ngoại có tương quan mật thiết với nhau và kết nối với nhau.

7. Về phương pháp làm việc của văn phòng giáo phận, văn kiện này khuyên:

* Phải lưu tâm tới các nguyên tắc về quan hệ công cộng. Những người có trách nhiệm phải xem xét “loại công chúng” của mình “vào mỗi lúc khác nhau, trong khi ngỏ lời và thiết lập mối quan hệ dựa trên sự tin tưởng và hiểu biết lẫn nhau. Việc này chỉ có thể thực hiện nếu người ta có sự tôn trọng và quí chuộng lẫn nhau và hết sức tôn trọng sự thật” (C&P, số 175).

* “Phải có sự lưu hành hai chiều về các tin tức và thông tin”. Nguyên tắc này một mặt nhằm “trình bày một hình ảnh thực về Hội Thánh” nhưng nó đồng thời cũng bộc lộ “cho giới chức giáo quyền biết những động lực, trào lưu và ý tưởng đang kích động thế giới loài người”. Nó “đòi hỏi vun trồng các mối quan hệ thân thiện dựa trên sự tôn trọng lẫn nhau giữa Hội Thánh, những con người và những nhóm người. Bằng cách này các cuộc trao đổi có thể được thực hiện dễ dàng, trong đó mỗi bên đều vừa cho vừa nhận” (C&P, số 175).

* Ngoài ra, để có một “đối thoại hiệu quả trong Hội Thánh và với thế giới bên ngoài... các bản tin chính thức là không thể thiếu. Chúng sẽ giúp cho các tin liên quan được phổ biến một cách nhanh chóng bao có thể. Bằng cách này, công chúng sẽ nhận được thông tin đúng lúc. Phải dùng mọi phương tiện để làm cho các mục tin như thế “tuyệt đối chính xác và nhờ đó tránh phải đính chính sau này. Các tin ảnh (flash), tin điện (telex) là những công cụ hiện đại nhất sẽ được sử dụng để truyền đi các ý nghĩa chính xác một cách đáng tin cậy nhất” (C&P, số 176).

8. Mỗi giáo phận cũng phải triển khai “một kế hoạch mục vụ truyền thông toàn diện” trong đó “các nhu cầu truyền thông được xác định, các mục tiêu được làm rõ, các dự trù ngân sách thực tế được soạn ra, và các nỗ lực truyền thông khác nhau được phối hợp”, như Huấn thị Mục vụ Aetatis Novae nhấn mạnh (số 23; xem C&P, số 165) và triển khai chi tiết hơn.

 Các nhiệm vụ cơ bản của một Văn phòng Truyền thông Giáo phận

Triển khai cho Giáo phận Linz, Áo (2001)

          Khi triển khai một khái niệm về hoạt động truyền thông của giáo phận Linz (Áo) năm 2000, các nhiệm vụ cơ bản của một văn phòng truyền thông giáo phận được gồm tóm trong bảy đoạn. Theo kế hoạch của giáo phận, văn phòng này có các nhiệm vụ sau:

1. Hoạt động mạng. Văn phòng nối mạng với những người và những tổ chức có trách nhiệm truyền thông bằng cách này hay cách khác trong giáo phận. Văn phòng cổ võ dòng thông tin trong giáo phận và đặc biệt giữa những người chịu trách nhiệm các vùng khác nhau. Đặc biệt thông qua mạng Internet, phải thực hiện một cố gắng phối hợp cho một mạng thông tin như thế trong cũng như ngoài giáo phận.

2. Hỗ trợ. Văn phòng hỗ trợ cách này hay cách khác mọi tổ chức và cá nhân, dựa vào hoạt động truyền thông của họ. Như thế, văn phòng là một trung tâm dịch vụ cho mọi loại hỗ trợ về phương tiện truyền thông chuyên nghiệp như tạo các mối quan hệ, hỗ trợ về báo chí và kỹ thuật.

3. Phân tích. Văn phòng quan sát các phát triển trong lãnh vực truyền thông, phân tích vị trí của giáo phận trong xã hội và làm cho mình trở nên như là “tai mắt” của giáo phận trong lãnh vực các  phát triển chuyên môn có liên quan. Các phát triển này phải được mọi người chú ý và phải được Hội Thánh xem xét nghiêm túc.

4. Hoạch định. Văn phòng truyền thông giáo phận giúp hoạch định các chương trình và chiến lược truyền thông cần thiết.

5. Điều phối. Văn phòng sắp xếp và điều phối các hoạt động truyền thông của các tổ chức và các nhóm trong giáo phận để giúp chúng hiệu quả hơn.

6. Những người đại diện. Văn phòng bảo đảm để trong các vấn đề khác nhau, có thể sử dụng đúng (những) người đại diện cho lãnh vực truyền thông và giáo phận luôn luôn xuất hiện với bộ mặt tích cực trước công chúng. Văn phòng hỗ trợ và cổ võ việc truyền thông của giám mục thông qua các phương tiện truyền thông, giúp cho hoạt động này gắn liền mật thiết với con người và chức vụ của ngài.

7. Các sáng kiến. Văn phòng này cũng có những sáng kiến trong việc phát triển các dự án truyền thông, trong hợp tác với các cơ quan khác của giáo phận. Chẳng hạn, việc đề xuất một chiến dịch dán bích chương (‘áp phích’) sẽ được phối hợp chặt chẽ với các nhóm khác có liên quan tới nội dung và việc thực hiện, mặc dù đó là một dự án của chính văn phòng truyền thông.

(Nguồn: Multimedia No. 4, 2001) 

 

Xem thêm chi tiết ở đoạn 6 riêng về kế hoạch mục vụ.

4.2.3. Tích hợp truyền thông vào đời sống và hoạt động tông đồ của giáo phận

Truyền thông xã hội tự nó là một hoạt động nối kết những con người với nhau và ràng buộc họ với nhau trong các gia đình, các giáo xứ và cả các giáo phận. Các phương tiện truyền thông đương đại giúp hỗ trợ sự phát triển này bằng nhiều cách và chúng rất cần thiết. Không chỉ có sự thông tin lẫn nhau, nhưng cả việc giải thích sự kiện và tình hình cũng là thành phần của dòng truyền thông này trong cộng đoàn. Tuy nhiên, vượt trên những điều này, phần đa hoạt động tông đồ và hoạt động của một giáo xứ hay giáo phận cũng có một chiều kích truyền thông. Bất luận ở đâu có sự chia sẻ thì đều có truyền thông. Vì vậy, sự ý thức và tích hợp chiều kích truyền thông này là yếu tố hết sức quan trọng.

Có nhiều mức độ khác nhau trong việc tích hợp truyền thông vào các hoạt động mục vụ của một giáo phận và một quốc gia. Ở mức độ thô sơ nhất, truyền thông chỉ là hoạt động của một văn phòng đặc biệt, độc lập với các mối quan tâm khác. Nhưng ở mức độ sâu xa nhất, truyền thông phải được tích hợp, và theo cách hiểu của một thần học truyền thông, nó phải được đưa vào tâm điểm của mọi hoạt động mục vụ. Việc Mặc Khải và Nhập Thể của Thiên Chúa là các hoạt động truyền thông của Người, được tiếp tục kể từ lễ Hiện Xuống trong sứ mạng của Hội Thánh.

Các phương thức Truyền thông Xã hội trong Mục vụ

Các phương thức khác nhau trong việc định vị hoạt động truyền thông trong mục vụ có thể mang những tính chất sau đây (xem Zukowski, 1998, 84-98; Eilers, 2002 a, tr. 81t.):

1.  Phương thức biệt lập

                

Các ngành truyền thông khác nhau của văn phòng truyền thông hoạt động riêng rẽ và phần nào không liên hệ với các ngành mục vụ khác. Chúng giống như những ‘tiểu đảo’..., báo chí riêng, truyền thanh truyền hình riêng, điện ảnh... mỗi ngành có lãnh địa riêng của mình.

Khó khăn:

- Có thể thiếu tầm nhìn và quan tâm chung.

- Thiếu hợp tác, đôi khi trùng lặp nhau. 

2. Phương thức Thống nhất                       

Các hoạt động truyền thông đặt dưới một cái ô duy nhất, ví dụ, một giám đốc chung cho mọi phương tiện truyền thông khác nhau nhưng có liên hệ với nhau.

Nhu cầu:

-  Một tầm nhìn chung: mọi hoạt động truyền thông hỗ trợ lẫn nhau và liên quan tới một sứ mạng chung.

- Hợp tác với các ngành tông đồ khác như Huấn giáo, Kinh Thánh...

- Sử dụng hiệu quả các nguồn lực có giới hạn.

3.  Phương thức hợp tác

Các hoạt động truyền thông theo hướng liên ngành và tích hợp.

Hiệu quả:

- Đưa khía cạnh truyền thông vào mọi hoạt động mục vụ khác;

- Cơ sở hạ tầng có chất lượng: kết hợp các kỹ thuật truyền thông và kết hợp các hoạt động mục vụ.

4. Phương thức chiều kích toàn diện

Truyền thông được nhìn và thể hiện như một chiều kích cơ bản của Hội Thánh ở mọi bình diện.

Hệ quả:

- Truyền thông như một nguyên tắc thần học làm nền cho mọi hoạt động của Hội Thánh.

- Nhấn mạnh ít hơn về tính dụng cụ của truyền thông (sự lấn lướt của phương tiện truyền thông).

- Nhấn mạnh nhiều hơn về Truyền thông như là ‘hiến mình trong Tình Yêu’ (C&P, số 11).                                     

4.2.4. Đào luyện về truyền thông giáo phận

Giáo phận cũng phải cống hiến việc đào tạo và huấn luyện về truyền thông xã hội. Những hạng người khác nhau trong giáo phận cần có những khả năng cho các loại và các mức độ đào tạo khác nhau.

Cuốn “Hướng dẫn đào tạo các Linh mục tương lai về Truyền thông Xã hội” của Thánh Bộ Giáo dục Công giáo của Toà Thánh (số 9) phân biệt 3 cấp độ đào tạo: (1) cấp căn bản; (2) cấp mục vụ; và (3) cấp đào tạo chuyên môn.

1. Cấp căn bản

Ở cấp này, không kể các linh mục tương lai, việc đào tạo cơ bản cũng phải được cống hiến cho mọi thành viên của Hội Thánh, nhưng đặc biệt là trẻ em và thanh niên. Về cơ bản, đây là toàn bộ chương trình về Giáo dục Truyền thông, rất cần thiết. Mục tiêu là đào tạo và dạy dỗ giới trẻ biết phán đoán và sử dụng các phương tiện truyền thông hiện đại một cách tích cực và có phê phán. Vì vậy, họ phải biết chi tiết hơn về các chức năng hoạt động của các phương tiện và công cụ mà họ có. Nền giáo dục truyền thông này (xem thêm ở chương về Đào luyện và Giáo dục Truyền thông ở trên) phải là một môn học bắt buộc và tích hợp trong mọi trường học và cơ sở đào luyện Kitô giáo. Tầm quan trọng của một nền giáo dục như thế đã được nhiều lần nhấn mạnh trong các văn kiện khác của Hội Thánh về truyền thông ở cấp thế giới nhưng cũng ở cấp châu lục như Châu Á. Văn phòng truyền thông giáo phận phải cung cấp các tư liệu như sách, video và các tài liệu khác, nhưng cũng phải giới thiệu danh sách các nhân sự có sẵn để lên kế hoạch và thực hiện các chương trình như thế.

2. Cấp mục vụ 

Ở đây việc đào tạo về truyền thông xã hội đặc biệt liên quan tới việc sử dụng đúng đắn các phương tiện truyền thông hiện đại cho sứ vụ mục vụ của Hội Thánh và của các thành viên Hội Thánh. Việc đào tạo này không chỉ liên quan đến các chương trình truyền thanh và truyền hình, nhưng cả việc sử dụng đúng đắn các phương tiện truyền thông mới, đặc biệt Internet.

3.  Đào tạo chuyên môn

Để có một chương trình học tập chuyên sâu hơn về truyền thông xã hội, có lẽ phải dựa vào các trường đại học hiện hữu hay các cơ sở tương tự. Những ai được Hội Thánh gửi đến các trường này không chỉ học các kỹ năng thực hành mà cũng có thể lấy các bằng cấp hàn lâm. Có một số đại học ở Rôma nhưng ở nơi khác cũng có, như ở Châu Á, tại các nơi này có thể có các môn học chuyên môn như thế, nhưng cũng có thể học các môn chuyên sâu về truyền thông mục vụ.

Ngoài 3 cấp đào tạo trên, giáo phận cũng cần quan tâm đặc biệt đến các chuyên gia Kitô giáo vốn đã đang hoạt động trong lãnh vực truyền thông thế tục, hay thậm chí đang dạy về truyền thông. Đối với những người này, giáo phận có thể cống hiến các khoá học đặc biệt, với sự nhấn mạnh về thần học và các giáo huấn của Hội Thánh, để nuôi dưỡng đức tin của họ và cũng để giúp họ ‘nối kết’ đức tin cá nhân của họ với các nhu cầu và đòi hỏi của thế giới truyền thông đương đại. Cũng cần khuyến khích họ trở thành thành viên của các tổ chức Công giáo chuyên nghiệp về truyền thông như UCIP Signis.

Chung chung cũng phải thấy sự khác biệt giữa đào tạo (‘training’) và huấn luyện (‘formation’). Đào tạo nhắm nhiều hơn về kỹ năng còn huấn luyện thì hướng tới một phẩm chất bên trong và niềm xác tín để từ đó ta hành động. Ngoài những nghĩa khác, huấn luyện về truyền thông có nghĩa là phát triển một thái độ giao tiếp cởi mở bên trong các cá nhân, các cộng đoàn và Hội Thánh. Nhờ vậy, Thánh Thần của Thiên Chúa không chỉ được phản ánh nơi những gì người ta làm, mà cả nơi thực chất con người của họ. Việc này đòi hỏi một sự đào luyện sâu hơn và sự trải nghiệm về linh đạo truyền thông được nuôi dưỡng bởi một sự dễ dạy sâu xa đối với Chúa Thánh Thần. Với một sự huấn luyện như thế, người truyền thông trở thành một người ‘chiêm niệm trong hoạt động,’ một thành ngữ mà Đức Gioan Phaolô II đã áp dụng cho các nhà truyền giáo trong Thông điệp Redemptoris Missio (1990).

4.2.5. Kế hoạch truyền thông giáo phận

Vể việc lập kế hoạch truyền thông của giáo phận, các nguyên tắc chung (xem II, 6) phải được áp dụng cho hoàn cảnh địa phương và giáo phận.

Một nghị quyết của ‘Hiệp hội các nhà truyền thông Công giáo Rôma tại Canađa’ (ARCCC, 1995) nhìn thấy một “Kế hoạch mục vụ giáo phận về Truyền thông” được tiến hành theo bảy bước sau đây:

1.  Phân tích về giáo phận (lịch sử, tổ chức, thành phần công chúng/đối tượng chính).

2.  Phát biểu về sứ mạng của giáo phận.

3.  Nêu các mục tiêu chung của một kế hoạch mục vụ giáo phận.

4.  Triển khai chiến lược.

5.  Xác định các hoạt động cần để đạt các mục tiêu.

6.  Hoạch định việc thi hành các hoạt động và phân phối các nguồn lực.

7.  Đánh giá việc thi hành.

Về các mục tiêu và tiêu chuẩn ‘chiến lược và chiến thuật’ trong việc lựa chọn các hoạt động trong giáo phận, đây là các điểm được đề nghị (1995, tr. 10tt):

1.  Duy trì một sự hiện diện tích cực trong xã hội.

2.  Cổ vũ việc truyền bá thông tin ở trung tâm của giáo phận.

3. Cung cấp việc đào tạo truyền thông cho các thành viên của các cộng đoàn (giáo xứ) của Hội Thánh.

Về các quy tắc chung cho chính sách truyền thông của giáo phận, đây là các qui tắc được đề nghị (1995, tr. 18):

1. Vị đặc trách truyền thông tiếp xúc trực tiếp với giám mục.

2. Mọi thông tin ở mọi cấp trong giáo phận được cung cấp cho vị đặc trách này.

3. Hành động liên quan đến truyền thông giáo phận được giao phó cho vị đặc trách truyền thông và vị này hoạt động trong sự hợp tác với các lĩnh vực mục vụ khác của giáo phận.

4. Nhiệm vụ của phòng truyền thông giáo phận là chuẩn bị các bản tin, được thông báo về việc chọn lựa các phát ngôn viên thích hợp cho giáo phận, và khi cần, chuẩn bị các bài giới thiệu cho giới truyền thông.

5. Trước khi công bố một văn kiện có tầm quan trọng, giáo phận sẽ lên một kế hoạch truyền thông để phổ biến.

4.3. Truyền thông ở cấp quốc gia và quốc tế

Việc truyền thông giáo hội và mục vụ không kết thúc ở một giáo phận nhưng vượt ra ngoài để đến với các thách thức ở cấp quốc gia và quốc tế. Trong một nước hay một vùng, các giáo phận được liên kết với nhau thông qua các Hội Đồng Giám Mục (HĐGM). Thông thường các Hội Đồng này giới hạn vào lãnh thổ của một quốc gia, nhưng đôi khi cũng gồm nhiều nước, chẳng hạn như trường hợp các nước Malaysia, Singapore và Brunei có chung một Hội Đồng Giám Mục. Ở cấp châu lục, nhưng đôi khi cũng ở cấp vùng, các Hội Đồng này còn liên kết hợp tác với nhau, ví dụ như Châu Á có “Liên Hội Đồng Giám Mục Châu Á” (FABC=Federation of Asian Bishops’ Conferences), gồm các nước của toàn Châu Á, kể cả Trung Á, nhưng không gồm các nước thuộc vùng Trung Đông.

4.3.1. Các Hội đồng Giám mục

Các đòi hỏi và kinh nghiệm của các giáo phận khác nhau trong hoạt động tông đồ truyền thông mục vụ của họ cũng còn phải được tăng hiệu quả ở cấp HĐGM, vì các HĐGM này được thiết lập bởi sự hợp tác và liên kết trách nhiệm của các giáo phận khác nhau. Trong lĩnh vực truyền thông mục vụ, về cơ bản mọi nguyên tắc và quy luật ở cấp giáo phận cũng được áp dụng ở đây. Theo đòi hỏi của Công đồng Vatican II, các HĐGM phải có một văn phòng truyền thông trong Hội Đồng, được điều hành và “uỷ thác cho một uỷ ban đặc biệt gồm các giám mục hay một vị giám mục đặc trách” (Inter Mirifica, số 21). Trong đa số trường hợp, văn phòng này cũng là ‘văn phòng quốc gia’ và có nhiệm vụ “đề ra những đường hướng chung để phát triển hoạt động tông đồ truyền thông xã hội ở cấp quốc gia” (C&P, số 172). Văn phòng này phải theo dõi nhưng cũng kích thích và nâng đỡ các hoạt động truyền thông trong khu vực của mình và bảo đảm có đủ chuyên gia để sử dụng các phương tiện truyền thông cho việc mục vụ. Văn phòng cũng phải đáp ứng các đòi hỏi và thách đố của các phương tiện truyền thông khác nhau cũng như các nhu cầu mục vụ của nhân sự sử dụng các phương tiện này.

Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio về Truyền thông Xã hội (số 170, 171) và Aetatis Novae (các số 18, 19, 21) liệt kê các hoạt động sau đây như là các hoạt động bắt buộc của các văn phòng quốc gia của HĐGM:

* Kích thích, cổ võ và hoà hợp các hoạt động Công giáo trong lĩnh vực truyền thông xã hội.

* “Nỗ lực đặc biệt trong việc đào tạo các tín hữu, giáo sĩ và giáo dân, bằng các khoá học có tổ chức, các hội nghị, các đợt học tập và các cuộc đánh giá phê bình do các chuyên gia chuẩn bị, để các tín hữu biết sử dụng phán đoán của mình một cách sáng suốt”.

* “Tư vấn cho các nhà sản xuất điện ảnh, các cuộc biểu diễn hay các chương trình truyền thanh truyền hình liên quan tới đề tài tôn giáo”.

* Duy trì “sự tiếp xúc với thế giới truyền thông xã hội chuyên nghiệp”.

* “Cung cấp các tư liệu, lời khuyên và trợ giúp mục vụ mà các chuyên gia truyền thông có thể cần tới”.

* “Tổ chức Ngày Thế giới Truyền thông ở cấp quốc gia”.

* “Tổ chức việc gây quĩ trong ngày ấy theo như gợi ý của Sắc lệnh Công đồng Vatican II”.

* Cung cấp việc “giáo dục và đào tạo về truyền thông” như là “phần cốt thiết của việc đào luyện các người hoạt động mục vụ và các linh mục”. Họ phải có “ít là một sự hiểu biết thực hạnh về ảnh hưởng của các kỹ thuật và các phương tiện truyền thông đại chúng đối với các cá nhân và xã hội”.

* Chuẩn bị để “phục vụ cả những người ‘giàu thông tin’ lẫn những người ‘nghèo thông tin’”.

* “Biết cách mời gọi người khác đối thoại, tránh cung cách truyền thông gợi lên thái độ kẻ cả, bóc lột hay trục lợi”.

* “Triển khai và cống hiến các chương trình chăm sóc mục vụ để đáp ứng một cách chuyên biệt cho các điều kiện làm việc đặc thù và các thách đố luân lý mà các chuyên gia truyền thông phải đối diện”.

* Các giáo phận và các HĐGM được mạnh mẽ khuyến cáo (Aetatis Novae số 21) phải “đưa một yếu tố truyền thông vào mọi kế hoạch mục vụ”, nhưng cũng phải có các kế hoạch mục vụ truyền thông xã hội riêng của mình.

* Các kinh nghiệm đã đạt được phải đem chia sẻ với các HĐGM khác.

Chiều kích truyền thông mục vụ được phản ánh trong rất nhiều đề nghị này, đặc biệt các đề nghị liên quan đến đào tạo, huấn luyện và chăm sóc mục vụ cho những người truyền thông. Từ bản liệt kê dài trên đây, ta thấy rõ rằng hoạt động tông đồ truyền thông mục vụ của các HĐGM là một lĩnh vực khá rộng mà tự nó cần có những người lãnh đạo được đào tạo kỹ và bảo đảm về chuyên môn.

4.3.2. Các cơ cấu và hợp tác cấp châu lục/vùng

Giống như các giáo phận và các HĐGM, các Liên Hội đồng Giám mục cấp châu lục hay vùng cũng phải hoạt động một cách tương tự. Tuy nhiên, họ có một chức năng điều phối và tiên phong nhiều hơn, và dành lại việc thi hành thực tế các kế hoạch cho các cấp quốc gia và giáo phận vì các cấp này có thể đến với công chúng một cách trực tiếp.

Hoạt động của văn phòng truyền thông xã hội cấp châu lục (OSC) của Liên Hội đồng Giám mục Châu Á (FABC) có thể được lấy làm điển hình. Văn phòng này không phải một trung tâm sản xuất, nhưng là điều phối, kích thích và phát triển các tầm nhìn có ích cho các giáo phận và các HĐGM cấp quốc gia. Chẳng hạn, văn phòng này

* Tổ chức các cuộc họp thường niên của các giám mục đặc trách truyền thông trong các HĐGM của họ, bao gồm cả các thư ký. Các cuộc họp giám mục này (FABC-OSC Bishops’ Meet) giúp các vị hiểu biết lẫn nhau, thảo luận các vấn đề quan tâm chung, việc hợp tác và làm kế hoạch khi có thể.

* Tổ chức các cuộc hội thảo tuỳ dịp cho các giám mục và các vị đặc trách truyền thông của các HĐGM về các vấn đề vượt ra ngoài ranh giới của mỗi quốc gia (Viện Truyền thông Xã hội của các Giám mục: Bishops Institute for Social Communication/BISCOM). Các cuộc hội thảo đã diễn ra trong quá khứ và các khoá bổ sung tiếp theo đã bàn về các vấn đề như: Truyền thông Công cộng/Quan hệ Công cộng (1997), các kỹ thuật truyền thông hiện đại như là những thách đố đối với Hội Thánh tại Châu Á (1999), huấn luyện truyền thông cho sứ vụ linh mục (2001), truyền thông và ngôn ngữ của giới trẻ (2002).

* Tổ chức các đợt nghiên cứu tuỳ dịp giữa các chuyên gia được mời về các chủ đề quan trọng đối với công việc của các HĐGM như rao giảng Tin Mừng và truyền thông, nghiên cứu truyền thông về tôn giáo và truyền thông xã hội.

* Xuất bản hằng tháng tờ thông tin FABC-OSC Communication INFO để thu thập và trình bày các mục tin tức quan trọng về Hội Thánh/Tôn giáo và Truyền thông Xã hội tại Châu Á.

* Sẵn sàng tư vấn và hợp tác với các HĐGM và các văn phòng khác của Liên Hội Đồng Giám Mục cũng như các tổ chức truyền thông chuyên nghiệp Kitô giáo ở cấp châu lục và quốc tế. Văn phòng cũng đảm trách một công cụ ‘nhóm điện tử’ (e-group) được thiết lập cho việc truyền thông giữa các văn phòng của FABC và đối tác phía Tin Lành có tên là Hội đồng Cơ đốc Châu Á (CCA=Christian Conference of Asia).

Thực hiện một website cho Liên Hội đồng Giám mục tại địa chỉ www.fabc.org, đưa những thông tin về FABC và các kết nối với các website của từng HĐGM, từng giáo phận và tổ chức liên hệ khác.

4.3.3. Các tòng tu

Các dòng và tu hội không phải là một thành phần chính thức của cơ cấu phẩm trật hay cơ cấu truyền thông chuyên môn của Hội Thánh theo luật định. Các sáng kiến truyền thông của họ phải được coi phần nào như là những công cuộc tư nhân, nhưng nhiều thành viên của họ cũng là những thành viên ở trong cơ cấu chính thức và/hay chuyên môn.

Tuy nhiên các dòng tu cũng có một trách nhiệm đặc biệt vì những đối với chính họ và vì những cống hiến của họ cho hoạt động tông đồ truyền thông của Hội Thánh. Có các tu hội như tu hội được sáng lập bởi Chân phước Don Alberione ở Alba (Ý) với tên là ‘Tu hội Thánh Phaolô’ (‘Pious Society of St. Paul’ hay ‘St. Paul’s Fathers) và các ‘Nữ tử Thánh Phaolô’ hay các Nữ tu Thánh Phêrô Claver được sáng lập bởi Chân phước Maria Theresa Ledochowska ở Salzburt (Áo), là những tu hội được sáng lập đặc biệt cho hoạt động truyền thông xã hội. Trong đoàn sủng riêng của mình, các dòng tu khác cũng có một chiều kích hay việc tông đồ đặc biệt trong lãnh vực này như Dòng Tên, dòng Đa Minh, dòng Thừa Sai Lời Chúa, dòng Salêdiêng và các dòng tu khác.

Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio nhiều lần nhắc đến các dòng tu và tương quan của họ với lĩnh vực truyền thông xã hội:

- Trước hết, các tu sĩ cũng có bổn phận “cống hiến cho việc giáo dục Kitô giáo trong lãnh vực này” (số 110) cùng với các giám mục, linh mục và giáo dân. Ở đây Huấn thị đặc biệt xét đến việc sử dụng thích đáng các phương tiện truyền thông, là một bổn phận đặc biệt đối với các tu sĩ chuyên lo các trường học, việc giáo dục và giảng dạy.

- Cũng vậy, đối với việc huấn luyện các tu sĩ của mình, giống như các chủng sinh giáo phận, các tu sĩ cũng có bổn phận: “Nếu... các tu sĩ trong thời kỳ đào luyện muốn hoà mình vào với cuộc sống đương đại và muốn làm việc tông đồ hiệu quả, họ phải biết rõ về tác động của các phương tiện truyền thông đối với các tầng lớp xã hội, và cũng phải biết kỹ năng sử dụng chúng. Đây phải là thành phần cơ bản của nền giáo dục bình thường của họ...” (số 111). Cùng một đòi hỏi này được lặp lại và triển khai thêm trong Huấn thị Mục vụ thứ hai là Aetatis Novae (số 18).

- Những gì Communio et Progressio đòi hỏi nơi các bậc cha mẹ, các nhà giáo dục, các linh mục và các tổ chức cũng phải được áp dụng đối với các tu sĩ: “khuyến khích những người trẻ có phẩm chất tốt hãy chọn một nghề thuộc lĩnh vực truyền thông xã hội...” (số 109). Thực ra, đoạn viết về việc đào tạo chủng sinh đã kết luận với cùng một đòi hỏi như thế: “Phải cống hiến một nền đào tạo cao hơn cho những chủng sinh nào chứng tỏ có năng khiếu đặc biệt trong lãnh vực truyền thông” (số 111).

- Trong một đoạn đặc biệt (số 177), Communio et Progressio xin các dòng tu nhìn đến “rất nhiều nhiệm vụ cấp bách của Hội Thánh trong lĩnh vực truyền thông xã hội và suy nghĩ xem họ có thể làm gì để đáp ứng trong phạm vi hiến luật của họ.” Nơi nào các hội dòng có các hoạt động truyền thông riêng của mình, họ phải hợp tác với các sáng kiến tương tự của những người khác. Họ đặc biệt được yêu cầu “cập nhật với chương trình mục vụ chung” của những vị đặc trách truyền thông của Hội Thánh trong cơ cấu phẩm trật.

- Đối với các dòng tu chuyên lo hoạt động truyền giáo của Hội Thánh, Huấn thị (số 126) nhắc nhở họ về sứ mạng do Đức Kitô uỷ thác là dạy dỗ muôn dân và làm ánh sáng của trần gian. Cũng như Đức Kitô, nhà truyền thông hoàn hảo, và các tông đồ đã sử dụng mọi phương tiện truyền thông hiện hữu vào thời của các ngài, thì “bây giờ cùng một thông điệp ấy cần phải được loan truyền bằng các phương tiện truyền thông hiện có hôm nay. Thật vậy, khó có thể nói rằng lệnh truyền của Đức Kitô đang được vâng theo nếu chúng ta không lợi dụng mọi cơ hội mà các phương tiện truyền thông đương đại cống hiến để loan truyền Tin Mừng của Người cho biết bao con người ngày nay”. Từ lâu Thánh Arnold Janssen, sáng lập Tu hội Thừa sai Lời Chúa (SVD) đã nói lên những suy nghĩ tương tự nhân dịp khánh thành nhà in riêng của ngài năm 1876, khi ngài nói về việc in ấn mà cho đến thời ấy vẫn còn là phương tiện truyền thông ‘hiện đại’ duy nhất. Vào thời Chúa Giêsu, “chữ in chưa được biết đến, nhưng ngày nay thì ai cũng biết, và ma quỉ sử dụng nó vì những mục đích xấu. Vì vậy, những ai phục vụ Đức Kitô cũng phải sử dụng nó để làm điều tốt. Lời được in thành chữ có sức mạnh biết bao, vì máy in có thể nhân nó lên một ngàn lần chỉ trong một giờ...”. Ngài còn cảm thấy rằng “hiệu quả của một nhà in truyền giáo được minh chứng rõ ràng khi chúng ta biết rằng mọi tu hội truyền giáo đều phải cung cấp cho các tu sĩ của mình các sách giáo lý, sách kinh và các tài liệu in ấn khác để hoạt động hiệu quả tại các nước truyền giáo”. Vì vậy theo quan điểm của Thánh Janssen, phải có một nền đào tạo và hiểu biết thực tiễn thích hợp ngay khi còn ở quê nhà (Eilers/Helf, 1987, tr. 61t).

Các ĐGH Piô XII và Gioan XXIII cũng đã phát biểu cùng một mối quan tâm ấy trong các Thông điệp truyền giáo của các ngài. Đức Gioan Phaolô II trong Thông điệp Redemptoris Missio của ngài về truyền giáo đã lặp lại một nhu cầu tương tự, đó là “truyền bá thông tin qua các ấn phẩm truyền giáo và các công cụ hỗ trợ nghe nhìn”. Bởi vì “các giáo hội trẻ vẫn chưa thể có các nhà in và các phương tiện khác của riêng họ, nên điều quan trọng là các tu hội truyền giáo phải dồn sức lực và nhân sự cho các công cuộc này” (số 83). Các ý tưởng trên được đưa ra sau lời tuyên bố khẩn thiết của Đức Phaolô VI trong Evangelii Nuntiandi (1975) rằng “việc rao giảng đầu tiên, huấn giáo hay các việc đào sâu đức tin không thể nào thực hiện được nếu không có các phương tiện này” của truyền thông xã hội. Cùng với toàn thể Hội Thánh, các dòng tu, đặc biệt các dòng chuyên hoạt động truyền giáo, “sẽ có lỗi trước mặt Chúa nếu không sử dụng các phương tiện mạnh mẽ này mà tài năng của con người đang làm cho ngày càng hoàn thiện hơn. Chính nhờ chúng mà Hội Thánh từ trên các mái nhà loan truyền đi thông điệp mà Hội Thánh nắm giữ” (số 45).

- Các dòng tu đang điều hành các trường đại học hay các cơ sở giáo dục và hàn lâm khác cũng phải “hết sức chuyên chăm cổ võ việc học tập và nghiên cứu khoa học về truyền thông xã hội” (số 113). Họ phải dấn mình đặc biệt vào công cuộc nghiên cứu, đào tạo và hoạt động khoa học theo các yêu cầu của Communio et Progressio (các số 113,184,185) và Aetatis Novae (số 32).

- Sự chăm sóc mục vụ cho các chuyên gia truyền thông, theo đòi hỏi của C&P (các số 70-78) và Aetatis Novae (các số 19, 29, 33), phải được coi là một thách thức đối với các dòng tu. Hội Thánh có trách nhiệm “triển khai và cống hiến các chương trình chăm sóc mục vụ có khả năng đáp ứng một cách chuyên biệt cho các điều kiện làm việc đặc thù và các thách đố luân lý mà các chuyên gia truyền thông phải đối diện...” (số 19).

- Tầm quan trọng của truyền thông đối với một cộng đoàn tu trì đã được diễn tả trong một đoạn đặc biệt dưới tiêu đề “Truyền thông để cùng nhau lớn lên” (các số 29-34) trong một văn kiện đề ngày 2-2-1994 của “Thánh Bộ các Tu hội Sống Đời Thánh Hiến và các Tu hội Sống Đời Tông Đồ” của Toà Thánh về “Đời sống huynh đệ trong Cộng đoàn”. Ở đây truyền thông được nhìn nhận là “một trong các yếu tố nhân văn đang ngày càng có tầm quan trọng lớn đối với đời sống của một cộng đoàn tu trì. Nhu cấu bức thiết phải cải thiện đời sống huynh đệ trong cộng đoàn được kèm theo một nhu cầu truyền thông, vừa tràn đầy vừa sâu đậm hơn” (số 29). Truyền thông trong các dòng tu ở các mức độ khác nhau “tạo nên sự nhậy cảm sâu sắc hơn” và “làm cho các tu sĩ gắn bó với nhau hơn xung quanh sứ mạng chung của họ” (số 30). Các cuộc hội họp thường xuyên trong cộng đoàn tỏ ra rất hữu ích (số 31). Nhưng “thiếu truyền thông hay truyền thông kém thường làm suy yếu tình huynh đệ.” “Sự hiệp thông bắt nguồn từ chính việc chia sẻ các ân huệ của Thánh Thần...” và có “nhiều cách giúp cho các ân thiêng được chia sẻ và truyền thông...” (số 32). Đôi khi các “chuyên gia truyền thông” có thể giúp ích cho các cộng đoàn nhưng họ phải “ân cần lo lắng cho lợi ích của các anh chị em mình, bằng cách vun trồng một khả năng của Tin Mừng là đón nhận từ những người khác tất cả những gì mà họ muốn cống hiến và truyền thông” (số 33). Còn về ảnh hưởng của các phương tiện truyền thông đối với các cộng đoàn, tài liệu này đề nghị các tu sĩ “học cách sử dụng chúng vì sự tăng trưởng của bản thân và cộng đoàn” nhưng cũng phải ý thức rằng “các phương tiện truyền thông thường đề nghị và nhiều khi áp đặt một não trạng và một mẫu sống thường xuyên tương phản với Tin Mừng”. Vì vậy cần có một sự huấn luyện chuyên sâu hơn về việc nhận và sử dụng các phương tiện truyền thông một cách vừa phê phán vừa có ích. “Cần có sự quân bình thích hợp: sử dụng các phương tiện truyền thông một cách điều độ và thận trọng, kèm theo sự phân định của cộng đoàn, có thể giúp cộng đoàn biết rõ hơn tính phức tạp của thế giới văn hoá, có ý thức trong việc đón nhận truyền thông và một con mắt biết phê phán, và sau cùng, biết đánh giá ảnh hưởng của chúng đối với các hoạt động mục vụ khác nhau trong việc phục vụ Tin Mừng” (34).

4.3.4. Các tổ chức chuyên nghiệp

Vào cuối thập niên 20 của thế kỷ 20, một số nhóm chuyên gia Công giáo trong lĩnh vực truyền thông bắt đầu tổ chức thành các hiệp hội quốc tế những người Công giáo hoạt động trong lĩnh vực truyền thông.

Tiếp theo sau một cuộc triển lãm báo chí “Pressa” tại Cologne năm 1927, hội “Liên hiệp Báo chí Công giáo Quốc tế” (UCIP=Union Catholique Internationale de la Presse) ra đời ngày 15-12-1927 tại Mechelen (Bỉ), đặt trụ sở lúc đầu tại Paris, bây giờ tại Geneva, Thuỵ Sĩ. Tổ chức quốc tế này có các liên đoàn khác nhau tuỳ theo các lĩnh vực chuyên môn. Các nhà báo Công giáo, các tuần báo Công giáo, các nhà xuất bản sách và các cơ quan thông tấn có các liên đoàn riêng của họ; những người hoạt động trong lãnh vực nghiên cứu và giáo dục cũng thế. Hiệp hội này cũng được tổ chức dựa trên cơ sở địa lý tuỳ theo các châu lục và quốc gia. Một “Mạng Lưới các Nhà Báo Trẻ” ra đời năm 1987 và đã trẻ trung hoá sức năng động của tổ chức này. Các thành viên của ‘mạng lưới’ này là các nhà báo Công giáo từ 30 tuổi trở xuống. Các tờ tin tức của hội và các cuộc hội nghị tạo diễn đàn để trao đổi kinh nghiệm và lên kế hoạch nghiệp vụ.

Ở cấp quốc gia và vùng, các sáng kiến tương tự nhằm tổ chức và hỗ trợ hoạt động chuyên nghiệp của ngành báo chí đã xuất hiện từ đầu thế kỷ 17. Xuất phát từ mối quan tâm của linh mục dòng Tên Emeran Welser, tại Munich (xứ Bavaria, Đức) đã ra đời một tổ chức chuyên phân phát các tờ bướm tôn giáo cho các thợ thủ công và các nhân viên phục vụ. Năm 1844/45, “Hội của Thánh Carôlô Bôrômêô Truyền Bá Sách Báo Tốt” (“Verein vom hl. Karl Borromäus zur Verbreitung guter Bücher”) được sáng lập tại Đức. Tiếp theo tại Düsseldorf năm 1878 có “Hội của Thánh Augustinô Truyền bá Báo chí Công giáo” (“Augustinus Verein für die katholische Presse”). Các nhà sáng lập các hiệp hội này chủ yếu là các nhà xuất bản và tổng biên tập của các nhật báo. Mục đích của họ là: 1) lập các tờ báo Công giáo tại những nơi cần; 2) hợp tác giữa các nhà báo Công giáo; 3) cung cấp các nguồn thông tin chung; 4) bảo đảm hỗ trợ kinh tế cho các nhà báo túng thiếu; và 5) đào tạo các nhà báo Công giáo. Tại Hoa Kỳ, “Hiệp hội Báo chí Công giáo Hoa Kỳ” được lập năm 1911 và “Hiệp hội Thư viện Công giáo” năm 1921.

Một sự kiện khác nữa theo sau cuộc triển lãm “Pressa” tại Cologne là việc sáng lập “Cơ quan Phát thanh Công giáo Quốc tế” (Bureau Catholique Internationale de Radiophonie - I.K.R.) vào tháng 6-1928, cơ quan này đã tổ chức một Đại hội Phát thanh Công giáo Quốc tế lần thứ nhất tại Munich, từ 19-22/6/1929. Đại hội này được tổ chức liền ngay sau Đại hội Điện ảnh Công giáo Quốc tế lần thứ hai tại cùng thành phố này (từ 17 đến 20-6-1929). Đại hội này được tổ chức bởi “Office Catholique Internationale du Cinematographie” (“Văn phòng Điện ảnh Công giáo Quốc tế - OCIC), được lập vào kỳ đại hội lần thứ nhất trước đó một năm, vào tháng 4-1928 tại Hague, Hà Lan. Trụ sở của văn phòng về điện ảnh vào thời đó đặt tại Paris (Pháp), còn trụ sở của văn phòng về truyền thanh đặt tại Cologne (Đức). Về sau, tổ chức truyền thanh lấy tên là Unda, tiếng Latinh có nghĩa là ‘sóng’. Tổ chức về điện ảnh được đặt tên lại thành “Tổ chức Điện ảnh Công giáo Quốc tế” (“Organisation Catholique Inter-nationale du Cinéma”.

Từ thời kỳ đầu này, cả hai tổ chức đã có những quan hệ mật thiết, và cuối cùng đã sát nhập với nhau vào tháng 11-2001 trong một kỳ đại hội tại Roma để trở thành một tổ chức duy nhất với tên gọi mới là Signis. Tên gọi mới này là kết hợp của hai từ Latinh “signum” (dấu hiệu) và “ignis” (lửa). Trụ sở được đặt tại Brussels (Bỉ). Giống như hai tổ chức Unda và OCIC trước đây, Signis cũng được tổ chức hoàn toàn dựa trên cơ sở châu lục và quốc gia, như Signis Châu Á, Signis Châu Phi, Signis Đức, Signis Philíppin... Tuy nhiên còn có thêm Signis International gồm các tổ chức vượt ra ngoài ranh giới của một quốc gia hay châu lục, ví dụ như các dòng tu. Tại Châu Mỹ Latinh, Signis và UCIP đã có một văn phòng chung châu lục tại Quito, Ecuador, từ năm 1987.

Sắc lệnh Inter Mirifica của Vatican II cũng như Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio yêu cầu các văn phòng thuộc cơ cấu phẩm trật hãy “ân cần cộng tác với các nhóm Công giáo quốc tế đã được lập tại mỗi quốc gia”, các nhóm này phải được “Toà Thánh công nhận một cách hợp pháp và chịu trách nhiệm trước Toà Thánh” (IM số 22). Các tổ chức trên đây nằm trong trường hợp này, và tên của các tổ chức ấy cũng được nhắc tới trong Communio et Progressio.

Theo Huấn thị Mục vụ này (số 179), các tổ chức ấy có các bổn phận sau:

- Cập nhật về nghiên cứu và phát triển trong lãnh vực truyền thông

- Cổ vũ sự tương trợ và hợp tác quốc tế

- Cập nhật thông tin về các hoạt động Công giáo trong lĩnh vực này

- Chuẩn bị việc phối hợp các chương trình và dự án

- Không ngừng tìm tư vấn về cách tốt nhất để giúp các nước đang phát triển

- Khuyến khích các hoạt động mới mẻ

- Sản xuất và phân phối phim ảnh, các chương trình thu sóng và mọi tư liệu gồm cả các tư liệu in ấn

- Làm hết sức mình để đẩy mạnh tiến bộ xã hội và cải thiện đời sống Công giáo

- Thực hiện và điều phối việc tìm kiếm giải pháp cho các vấn đề chung của tổ chức mình.

Các bổn phận này của Communio et Progressio (1971) khi so sánh với các mục tiêu được đề ra cho tổ chức mới Signis (2001) sẽ cho thấy một số điểm rất đáng chú ý. Cương lĩnh của tổ chức Signis này liệt kê ra các mục tiêu sau đây (điều 3):

1.  “Phát huy một sự hiểu biết Kitô giáo về tầm quan trọng của truyền thông nhân văn trong mọi nền văn hoá.

2.  Dấn thân cho các hoạt động nhằm mục đích phát huy và cổ võ sự tham gia vào việc cải thiện môi trường truyền thông dựa trên các giá trị Kitô giáo.

3.  Cởi mở và phát huy sự hợp tác đại kết và liên tôn trong các hoạt động truyền thông.

4.  Cổ vũ các chính sách truyền thông tôn trọng các giá trị Kitô giáo, công lý và các quyền con người.

5.  Cổ vũ đối thoại với các chuyên gia truyền thông về các vấn đề luân lý, thiêng liêng và nghề nghiệp.

6.  Tham gia vào việc huấn luyện dư luận quần chúng dựa trên các giá trị đạo đức và thiêng liêng vững chắc.

7.  Hỗ trợ việc giáo dục các phương tiện truyền thông ở mọi cấp độ.

8.  Tham gia vào các diễn đàn quốc tế về truyền thông.

9.  Tạo thuận lợi cho sự tương trợ giữa các thành viên qua đối thoại và phát triển nghiệp vụ.

10. Đại diện cho các tổ chức truyền thông Công giáo tại các tổ chức chính phủ hay phi chính phủ”.

Trong các mục tiêu này, các mối quan tâm mục vụ cũng phần nào được bao gồm nhưng không thực sự được nói rõ ra. Việc sử dụng truyền thanh, TV và Phim ảnh - từng là những nội dung cơ bản của các cơ quan bà con với tổ chức mới này - và các phương tiện truyền thông đương đại khác cho hoạt động mục vụ có vẻ như bị gạt ra ngoài, không được xét đến như một mối quan tâm đặc biệt. Vào thời của Unda/OCIC với danh nghĩa là các tổ chức chuyên nghiệp, có vẻ như người ta nhấn mạnh về các nhu cầu giáo hội và mục vụ nhiều hơn bây giờ.

Về việc tài trợ cho các dự án truyền thông, Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio nói các HĐGM và các hiệp hội chuyên nghiệp Công giáo “sẽ bảo đảm cho các tổ chức Công Giáo quốc tế các quĩ tài trợ cần thiết để làm công việc này” (số 180). Tuy nhiên, tiếc rằng Huấn thị không cắt nghĩa rõ hơn về các “hiệp hội chuyên nghiệp” này.

Kinh nghiệm thực tế trong những năm qua đã cho thấy không dễ làm việc dựa trên cơ sở của cơ cấu kép này là tổ chức phẩm trật và tổ chức chuyên nghiệp. Khi nhân sự chịu trách nhiệm chuyên môn trong cả hai cơ cấu là cùng một người, như khi người đứng đầu tổ chức báo chí cũng là người đặc trách báo chí của HĐGM, thì công việc tiến hành suôn sẻ. Nhưng ngược lại, khi người đặc trách báo chí trong cơ cấu phẩm trật và người đặc trách trong tổ chức chuyên môn là hai người khác nhau, thì những bất đồng ý kiến và căng thẳng có thể rất dễ xảy ra.

Ngoài hai tổ chức chuyên nghiệp chính thức của Công giáo, cũng còn có Hiệp hội Thế Giới về Truyền thông Kitô giáo (WACC=World Association for Christian Communication), là cơ quan chuyên nghiệp đại kết có trụ sở đặt tại Luân Đôn. Nguyên thuỷ phát xuất từ các tổ chức truyền thanh và văn học của Tin Lành, tổ chức WACC bao trùm mọi lãnh vực của ngành truyền thông xã hội. WACC cũng được tổ chức dựa trên cơ sở địa lý, ví dụ như WACC Châu Á, WACC Philíppin... Vì là một cơ quan đại kết, WACC cũng có nhiều thành viên là người Công giáo Rôma. Tờ báo Media Development (“Phát triển Truyền thông”) ra hằng quí với các số viết theo chủ đề, là một đóng góp cho việc suy tư và nghiên cứu nghiêm túc trong các lãnh vực khác nhau của truyền thông Kitô giáo.

4.3.5. Đào luyện Truyền thông+

Mọi việc đào luyện đều vượt lên trên các phương tiện kỹ thuật và phải quan tâm tới toàn thể lãnh vực truyền thông xã hội. Ngày nay chúng ta hiểu truyền thông xã hội thực sự là gì? Xem ra không nhiều người hiểu đầy đủ thuật ngữ này mặc dù họ sử dụng nó. Đây là thuật ngữ đã được sáng chế và đề nghị bởi uỷ ban chuẩn bị cho sắc lệnh Inter Mirifica của Vatican II về truyền thông xã hội. Đính kèm với bản dự thảo đầu tiên và cả bản dự thảo cuối cùng cho các nghị phụ thảo luận, có một cước chú nói rằng tất cả các thuật ngữ như ‘Phương tiện Đại chúng’, ‘Phương tiện Truyền bá’, “Phương tiện Nghe-Nhìn’, đều không đủ để diễn tả điều mà Hội Thánh quan tâm. Theo mục cước chú này, các phương tiện truyền thông phải truyền đi một nội dung tinh thần do những con người tạo ra và phải được chia sẻ với những người khác. Vì vậy, toàn thể tiến trình này có liên quan tới xã hội loài người. Nói cách khác, Hội Thánh quan tâm tới việc chia sẻ các thông điệp tinh thần với những con người như là những thành viên của xã hội. Vì vậy uỷ ban đã đề nghị sử dụng thuật ngữ ‘truyền thông xã hội’.

Theo một cách hiểu đơn sơ và rộng hơn, truyền thông xã hội có nghĩa là việc truyền thông trong và của xã hội loài người. Theo cách hiểu này, truyền thông xã hội không chỉ liên quan tới các phương tiện đại chúng như radiô, TV hay phim ảnh. Truyền thông Xã hội phải quan tâm tới mọi cách thức và mọi phương tiện truyền thông trong xã hội loài người. Vì vậy, nó cũng bao gồm cả các phương tiện truyền thông truyền thống trong các cộng đồng như khiêu vũ, kịch nghệ, ca hát và cả việc truyền thông nhóm và giữa các cá nhân với nhau.

Thuật ngữ truyền thông xã hội đang ngày càng được chấp nhận nhiều hơn ở bên ngoài Hội Thánh và bây giờ thậm chí còn được sử dụng cả trong các giới hàn lâm ngoài Kitô giáo.

Suy nghĩ mới này của Vaticanô II có những hệ quả quan trọng cho việc huấn luyện linh mục, bởi vì vấn đề liên quan ở đây không còn chỉ là các phương tiện truyền thông đại chúng mà là toàn thể lãnh vực truyền thông của con người trong xã hội. Nó liên quan tới tất cả các cách truyền thông với con người và với các cộng đồng. Khi nói về truyền thông chung chung, chúng ta thường tự động nghĩ đến các phương tiện đại chúng hay truyền thông đại chúng. Vatican II coi đó là một cách hiểu hạn hẹp, đây có lẽ  là lý do đã khiến ta thiếu ý thức về việc huấn luyện truyền thông thực sự trong các chủng viện hay các cơ sở đào tạo của Hội Thánh.

Ở đây cũng có một sự khác biệt quan trọng khi sử dụng hai từ huấn luyện đào tạo, bởi vì đào tạo liên quan tới các kỹ năng và kỹ thuật, còn huấn luyện thì tác động trên con người toàn diện và các thái độ nội tâm cơ bản của họ. Cách nhìn này vượt lên trên một lối hiểu hạn hẹp về truyền thông.

Đây là lý do tại sao Dòng Tên trong Tổng Tu nghị (1995) của họ đã gọi truyền thông là một chiều kích tông đồ chính của mọi hoạt động tông đồ của họ chứ không phải chỉ là một khâu dành riêng cho một số chuyên gia. (Xem bản văn đầy đủ ở Phần I, 4.4).

Hiến Luật của Tu hội Thừa sai Lời Chúa (SVD) cũng cho thấy cùng một hướng này. Dựa trên Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio (1971, số 11) mô tả truyền thông như là “sự hiến mình trong tình yêu”, Hiến Luật này nói:

“Truyền thông ở mức độ sâu xa nhất của nó là sự hiến mình trong tình yêu và vì thế là một thái độ cơ bản cần thiết đối với chúng ta là các Thừa sai Lời Chúa”.

Nếu truyền thông thực sự là ‘hiến mình trong tình yêu’, thì nó phải ở tâm điểm của mọi việc huấn luyện linh mục. Nó có nghĩa là một yếu tố thiết yếu trong đào luyện, bởi vì mọi thừa tác vụ linh mục rốt cuộc đều là hiến mình, phản chiếu sự ‘hạ mình đến cùng’ (kenosis) của Chúa Giêsu. Thật vậy, Huấn thị Communio et Progressio gắn liền thái độ này với thái độ của chính Đức Giêsu Kitô, Đấng tự mặc khải như là ‘Người Truyền Thông hoàn hảo’:

“Qua việc ‘nhập thể’, Người tự đồng hoá mình hoàn toàn với những người đón nhận sự truyền thông của Người và Người ban thông điệp của Người không chỉ bằng lời nói nhưng còn bằng tất cả nếp sống của Người. Người nói tự trong lòng mình, nghĩa là không chịu sự tác động của người khác. Người giảng thông điệp của Thiên Chúa mà không sợ hãi hay thoả hiệp. Người thích nghi với cách nói năng và suy nghĩ của dân chúng. Và Người nói lên tình trạng khó xử của thời đại họ”.

Một bối cảnh khác nữa cho cách hiểu này là sự kiện có một Thần học Truyền thông quan niệm về Ba Ngôi, Mặc Khải, Nhập Thể và việc sai phái Hội Thánh như là những việc truyền thông, dẫn đến câu nói của Dulles: Hội Thánh truyền thông. Các cố gắng này coi truyền thông như một nguyên tắc thần học từ đó người ta nhìn và nghiên cứu toàn bộ thần học.

(Về chi tiết, xin xem mục Thần học Truyền thông ở trên)

Vậy tất cả điều này có nghĩa là gì cho việc đào luyện các linh mục (tương lai)? Chúng ta phải thấy rằng các linh mục phải là những người truyền thông ‘tuyệt vời’ nhưng không chỉ hiểu theo nghĩa là có các kỹ năng mà hơn nữa phải sống và phát huy các phẩm chất và thái độ truyền thông cơ bản của Thiên Chúa với chúng ta và cho chúng ta.

Hồng y Carlo Martini phân chia bài trình bày vể truyền thông trong viễn tượng Kinh Thánh của ngài thành 3 chương dưới tiêu đề: Thấy, Nghe, và Làm. Muốn truyền thông một cách có ý nghĩa, ta phải thấy hiện tình của mình và người khác, đồng thời lắng nghe và chiêm ngưỡng ơn cứu chuộc của Thiên Chúa.

Người Mục Tử Tốt Lành

Linh mục được gọi đi theo và trở nên giống Chúa Giêsu - Người Mục Tử Tốt Lành. Lời của Người cho cúng ta những cái nhìn sâu sắc đầu tiên về loại truyền thông mà chúng ta phải có và phát triển: “Tôi là người mục tử tốt lành. Tôi biết các chiên tôi và các chiên tôi biết tôi, và tôi thí mạng sống mình vì đàn chiên...” (Ga 10,14). Mô tả này có những hệ quả quan trọng đối với khả năng và phẩm chất truyền thông của một linh mục!

a. “Tôi biết các chiên tôi”

Chúng ta có thực sự biết các ‘chiên của mình’ không? Chúng ta có biết những người mà chúng ta phải chăm sóc, giảng dạy và đến với họ không? Chúng ta có biết các sự phấn đấu và các tham vọng của họ không? Chúng ta có biết thế giới họ sống - không chỉ các hoàn cảnh bên ngoài mà cả các khung tư tưởng và thế giới quan mà họ thường chịu ảnh hưởng mạnh và đôi khi bị quyết định bởi những gì họ thấy và nghe trên các phương tiện đại chúng không?

Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói: “Các phương tiện truyền thông xã hội đã trở nên quá quan trọng khiến cho đối với nhiều người, chúng trở thành những phương tiện chính để thông tin và giáo dục, hướng dẫn và soi sáng các hành vi của họ trong đời sống cá nhân, gia đình và xã hội nói chung. Cách riêng, thế hệ trẻ đang lớn lên trong một thế giới bị các phương tiện đại chúng chi phối...” (Redemptoris Missio, số 37c).

Về phương diện này, để biết các chiên của mình, linh mục cần phải có ít là một sự hiểu biết cơ bản về các hoạt động, các qui trình sản xuất của các Phương tiện Đại chúng, và ảnh hưởng của chúng đối với những người tiếp nhận. Ở đây, việc “giáo dục truyền thông” vẫn thường được cống hiến cho mỗi người có lẽ là không đủ. Các phương tiện truyền thông phải được xét một cách đặc biệt dưới góc cạnh ảnh hưởng và các nhu cầu mục vụ. Ảnh hưởng của chúng thường quyết định lối suy nghĩ của người ta và não trạng của họ. Các ‘show’ diễn hay các phim nhiều tập trên TV mà họ vừa xem có thể vẫn còn lởn vởn trong đầu óc họ khi họ bước chân vào nhà thờ và thường vẫn còn là đề tài cho các cuộc trò chuyện với những người khác và thậm chí còn là cách cư xử của họ. Linh mục cần phải ý thức về điều này và phải có khả năng đặt ‘thông điệp’ của mình vào trong não trạng này của dân và nhờ đó đưa sự hiện diện của Thiên Chúa giữa chúng ta vào trong bối cảnh này.

Thánh tông đồ Phaolô từ xưa đã cho chúng ta một mẫu gương về việc biết các thính giả của mình khi ngài ngỏ lời với những người Hi Lạp tại nghị trường của họ (Hội đồng Arêôpagô) ở Athen bằng cách nói với họ về bàn thờ các vị thần vô danh mà ngài trông thấy trong thành phố của họ (Cv 17,22tt).

Thánh Augustinô cho chúng ta một số quy tắc cơ bản về truyền thông trong quyển De catechezandis rudibus của ngài. Ngài khuyên thầy phó tế Deogratias có một thái độ nội tâm tích cực khi truyền thông với các sinh viên của mình (số 4) hay mời thính giả của mình ngồi xuống ghế để họ cảm thấy thoải mái hơn khi nghe mình nói (số 18).

Thánh Grêgorio Cả trong quyển “Qui tắc Mục vụ” (591), sách này cùng với sách Kinh Thánh được đặt lên đầu mỗi tân giám mục trong lúc tấn phong, đã khuyên như sau: “Bài giảng của người giảng thuyết phải thích ứng với tính tình của người nghe, để hợp với nhu cầu của mỗi cá nhân...”. Ngài liệt kê ra khoảng 40 loại thính giả và cho một lời khuyên về cách giảng cho từng loại người, như người giàu và người nghèo, người vui và người buồn, nô lệ và chủ nhân, người khôn và người ngu, người thô lỗ và người nhút nhát, người nóng nảy và người kiên nhẫn, người trầm lặng và người ba hoa, người hiền và người nóng, người khiêm tốn và người kiêu căng...

Đó là những thách thức đối với người linh mục khi noi gương Người Mục tử Tốt lành biết các chiên của mình và không muốn bắt chước những người mục tử của Israel như được mô tả trong sách ngôn sứ Êdêkien (Chương 34). Họ chỉ “chăm sóc bản thân họ, chứ không chăm sóc đàn chiên (2); họ không tăng sức cho người mỏi mệt hay chữa lành người yếu đau, hay băng bó cho người bị thương”. Họ không “đưa con chiên lạc về hay đi tìm con chiên bị mất”; họ cai quản chúng “cộc cằn và thô bạo” (4). “Đàn chiên tản mát trên khắp mặt đất mà chẳng có ai đi kiếm chúng về” (6).

b. “Và chiên tôi biết tôi”

Tương tự như trên, câu nói này là một thách thức đối với việc đào luyện truyền thông của các linh mục. Có nghĩa là mục tử, linh mục phải cho dân có thể trông thấy mình, phải ở gần dân. Họ phải biết mình, cũng như mình phải biết họ. Muốn vậy cần phải tỏ ra trong sáng và đáng tin; có nghĩa là linh mục phải sống và hành động thế nào để dân có thể đoán trước được.

Vào Ngày Đầu Năm 2002, một nhóm giáo dân đứng đợi dự thánh lễ lúc 8 giờ sáng tại giáo xứ Manila, nhưng đợi mãi mà không thấy linh mục xuất hiện. Cuối cùng, giáo dân được thông báo linh mục đã dời giờ lễ tới 9 giờ 45 mà không thông báo trước. Vị linh mục này là một linh mục trẻ và mới. Hành xử kiểu này, linh mục ấy không những làm đổ vỡ truyền thông mà còn làm xói mòn lòng tin cậy. Làm sao tôi có thể tin cậy một người không rõ ràng, người mà tôi thực sự không biết và cứ thay đổi quyết định xoành xoạch?

Truyền thông dở cũng xảy ra rất thường xuyên giữa chính các linh mục với nhau cũng như trong các cộng đoàn linh mục. Năm 1994, “Thánh Bộ các Tu hội Sống Đời Thánh Hiến và các Tu hội Sống Đời Tông Đồ” của Toà Thánh đã ra văn kiện Congregavit nos in unum Christi amor (“Tình yêu Đức Kitô đã quy tụ chúng ta nên một”), trong đó cũng có nói về truyền thông và sự cởi mở với nhau trong đời sống cộng đoàn.

Truyền thông được nhìn nhận là “một trong các yếu tố nhân văn đang ngày càng có tầm quan trọng lớn đối với đời sống của một cộng đoàn tu trì. Nhu cấu bức thiết phải cải thiện đời sống huynh đệ trong cộng đoàn được kèm theo một nhu cầu truyền thông, vừa tràn đầy vừa sâu đậm hơn” (số 29).

Sự truyền thông này “tạo nên sự nhậy cảm sâu sắc hơn” và “làm cho các tu sĩ gắn bó với nhau hơn xung quanh sứ mạng chung của họ” (số 30). “Thiếu truyền thông hay truyền thông yếu thường làm suy yếu tình huynh đệ”. “Sự hiệp thông bắt nguồn từ chính việc chia sẻ các ân huệ của Thánh Thần...” và có “nhiều cách giúp cho các ân thiêng được chia sẻ và truyền thông...” (số 32).

Có thể nói giống như thế không những về các cộng đoàn linh mục mà cả đối với mọi giáo xứ, là nơi mà giáo dân phải biết và quan hệ với linh mục mà họ phải gần gũi, có thể đến bất cứ lúc nào và là người cởi mở trước các nhu cầu và mong đợi của họ.

c. “Tôi thí mạng sống vì chiên tôi”

Truyền thông bằng lời nói và việc làm mà thôi không đủ. Biết con chiên và ‘con chiên’ biết ‘chủ chăn’ cũng không đủ. Truyền thông cần phải có sự hiến mình hoàn toàn. Điều cốt yếu là nó không chỉ bắt nguồn từ việc học biết và áp dụng các kỹ thuật. truyền thông đích thực phải bắt nguồn từ một sự dấn mình hoàn toàn cho tới mức hiến mạng sống mình vì người khác. Sau cùng, đầy chính là sống hành vi “trút bỏ mình” hoàn toàn (kenosis) của Chúa Giêsu (Pl 2,5tt).

Theo cách nói của truyền thông, nó có nghĩa là linh mục phải dễ đến gần, phải luôn luôn ở tư thế sẵn sàng phục vụ. Không giống các mục tử của Israel, linh mục là người ‘trực ca’ và tất cả mối quan tâm và cuộc sống của họ được hướng tới việc phục vụ truyền thông và chia sẻ với dân.

Có thể xây dựng cả một linh đạo linh mục dựa trên cơ sở của thái độ sẵn sàng phục vụ. Linh đạo này đòi hỏi người linh mục không được (quá) quan tâm đến bản thân mình, mà phải luôn luôn sẵn sàng phục vụ. Khả năng truyền thông cởi mở, như là một thái độ, có những thách thức đặc biệt đối với việc đào luyện chủng viện bởi vì thái độ cởi mở này không chỉ là một năng khiếu, kỹ xảo và kỹ thuật, mà là một thái độ bên trong, được phát triển như một phần nhân cách của một người. Một linh mục mà không thể giải quyết các vấn đề cá nhân của mình trong thời kỳ đào luyện thì luôn luôn có nguy cơ cần quá nhiều thời giờ và sức lực để lo cho bản thân mình, thay vì rảnh rang để lo cho người khác.

Một số điều kiện cho việc đào luyện truyền thông

Dưới đây là một ít yếu tố phải được coi là thiết yếu cho việc đào luyện truyền thông trong sứ vụ linh mục:

1. Thinh lặng và Linh đạo

Mọi việc truyền thông Kitô giáo đều bắt đầu bằng sự thinh lặng. TGM Carlo Martini (1990, số 30) liệt kê nó như là tiêu chuẩn đầu tiên trong các tiêu chuẩn về sự truyền thông của Thiên Chúa. Sự truyền thông của Thiên Chúa được chuẩn bị trong thinh lặng và trong nơi bí ẩn của Thiên Chúa. Nó là một “mặc khải về mầu nhiệm được giấu kín tự ngàn xưa” (Rm 16:25). Nó là một mầu nhiệm “đã được giấu kín tự ngàn xưa nơi Thiên Chúa, Đấng dựng nên mọi sự” (Ep 3,9). Vì các quan tâm mục vụ của ngài đối với Tổng Giáo phận Milan, TGM Martini nói:

“Mọi việc truyền thông đều phát sinh trong thinh lặng; nhưng không phải cái thinh lặng trống trải u buồn, mà là cái thinh lặng thấm nhuần sự chiêm ngưỡng những kỳ công Thiên Chúa đã làm cho dân Người. Chúng ta cần phải xét mình lại về thời gian chúng ta dành cho thinh lặng, dù là trong đời sống thường ngày, trong phụng vụ, hay trong các kỳ tĩnh tâm chính chúng ta tham dự hay tổ chức cho cộng đoàn mình... Một điều quan trọng nữa là, bắt đầu với sự thinh lặng của Đức Maria đón nhận lời của thiên sứ với lòng ngạc nhiên và kính sợ, chúng ta phải tự hỏi mình rằng chúng ta có biết nhìn thực tại, các biến cố, cuộc sống, và mầu nhiệm Thiên Chúa với con mắt ngạc nhiên hay không...” (số 58).

Truyền thông Kitô giáo nói chung, nhưng đặc biệt người linh mục truyền thông cần phải có một ‘con tim biết lắng nghe’ (x. 1 V 3:0) trong tâm tình cởi mở đối với Thiên Chúa và người khác. Giống như Ađam trong bức danh hoạ về tạo dựng của Michelangelo tại Nhà nguyện Sixtine ở Vatican, hoàn toàn mở rộng để đón nhận sự sống từ tay Thiên Chúa, người linh mục truyền thông cũng cần một linh đạo của sự mở rộng hoàn toàn.

Mẫu Truyền thông Kitô giáo

Trong một khoá giảng dạy của tôi tại Đại học Thánh Tôma ở Manila, chúng tôi đã triển khai một ‘Mẫu Truyền thông Kitô giáo’. Dựa trên Thánh Augustinô, mẫu truyền thông này đặt thông điệp Kitô giáo vào vị trí trung tâm, và người đưa tin chỉ là một công cụ để phục vụ thông điệp. Trong các mẫu truyền thông bình thường theo hàng dọc với Người Gửi-Thông Điệp-Người Nhận, Người Gửi giữ vị trí trung tâm và hầu hết việc tìm kiếm được dành trực tiếp hay gián tiếp cho Người Gửi. Trong mẫu Kitô giáo mới, chính Thiên Chúa cùng với thông điệp của Người giữ vị trí trung tâm. Có nghĩa là người đưa tin càng biết lắng nghe và đồng hoá mình với thông điệp, họ càng phản ánh và truyền thông nó nhiều hơn.

Trong một bức tranh do Martin Knoller vẽ năm 1722 trong nhà thờ tu viện Muri-Gries ở Bolzano, Bắc Ý, một tia sáng chảy từ miệng Đức Kitô xuống tay Thánh Augustinô để phi bác những người lạc giáo. Có thể coi đây như là hình ảnh minh hoạ ‘Mẫu Truyền thông Kitô giáo’, đặc biệt cũng là vì tia sáng đi thẳng tới tay và bút của Thánh Augustinô, vị thánh quan thầy của nhà thờ này. Theo cách bố cục của bức tranh, Đức Kitô là Lời đứng ở vị trí trung tâm và Thánh Augustinô người truyền thông chỉ là sứ giả mà thông qua đó Lời Đức Kitô đến với những người nhận. Thực ra tia sáng rơi đúng vào cây bút lông chim trong tay Thánh Augustinô. Ngài, tay ngài và cây bút chỉ là những dụng cụ để phục vụ Đức Kitô là chính thông điệp!

Trong cuộc đời Đức Kitô, Chúa Cha là trung tâm; vì vậy việc truyền thông của linh mục cũng phải bắt đầu với Chúa Cha trong Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chính đời cầu nguyện của linh mục là nguồn mạch từ đó mọi việc truyền thông tuôn chảy. Việc truyền thông của Thiên Chúa xuất phát trong thinh lặng, suy niệm và cầu nguyện, và linh mục là người đầu tiên đi theo con đường này.

Một linh mục không có thời giờ cho đời sống thiêng liêng và kinh nguyện cá nhân thì chẳng khác gì cái cây không lá, cái bàn không thức ăn, người lính không vũ khí. Chỉ có sự thinh lặng sâu thẳm và lắng nghe trong kinh nguyện mới có thể đem lại cái nền thiêng liêng cần thiết cho sứ vụ truyền thông của linh mục.

Liên kết với thinh lặng và kinh nguyện cũng có việc phục vụ của linh hướng. Linh hướng là và phải là sự truyền thông sâu xa giữa hai người đồng hành đến với Chúa. Trong các chủng viện của chúng ta, linh hướng thường có vẻ là một bổn phận phải làm và dễ bị mắc kẹt về phương diện hoạt động. Đây không phải là truyền thông thực sự, mà là một việc tuân giữ các luật lệ mà hiếm khi có tác động thực sự. Linh hướng đích thực là một thách đố đặc biệt đối với sự cởi mở truyền thông của chủng sinh cũng như của vị linh hướng, chính linh hướng là người trước tiên và trước hết cần có một ‘con tim biết lắng nghe’ và đời sống sâu xa với Chúa.

2. Đối diện với thực tại

Đức Giêsu truyền thông qua việc gặp gỡ con người trong thực tế đời sống của họ. Cũng vậy, người truyền thông/linh mục cần phải mở ra với các thực tại của chính mình và của người khác. Rất thường xuyên các linh mục và chủng sinh có vẻ khó chấp nhận thực tại của mình. Các kinh nghiệm đau thương và thậm chí tội lỗi thường bị che giấu để có thể được thụ phong hay để giữ được một ‘hình ảnh’ tốt đẹp. Bí tích Hoà Giải bị biến chất thành một việc chỉ đơn thuần nghe tội mà không có một sự xử lý nào.

Các điều tiêu cực bị mắc kẹt như thế thường cản trở người linh mục trở thành một người truyền thông cởi mở. Tất cả những gì bị đè nén trong thời kỳ đào luyện dễ xuất hiện trở lại sau khi thụ phong và gây sức ép trên năng lượng cảm xúc và tâm lý, làm cản trở việc truyền thông với những người được trao phó cho chúng ta chăm sóc. Johannes Bours, Linh hướng một thời gian dài tại một chủng viện ở Đức, đã liệt kê những dấu hiệu khủng hoảng sau đây trong đời sống linh mục:

* Trốn chạy: rượu, chia trí thái quá, ‘giải trí’

* Nói huyên thuyên

* Thiếu khả năng giữ thinh lặng

* Hiếu hoạt thái quá

* Nhu cầu khẳng định mình quá cao

* Thường xuyên phê bình, có cái nhìn tiêu cực

* Khó ngủ

* ‘Bất thường’ về tính dục

* Khó giao tiếp... cô lập, sợ hãi

* Khả năng hành động bị tê liệt

* Gắn chặt vào một số mối quan hệ (xem Eilers, 1999, tr. 132)

Tất cả những dấu hiệu này là bằng chứng của một sự truyền thông bị méo mó. Phát triển và nâng đỡ sự truyền thông chân chính trong đời sống linh mục và thừa tác vụ có nghĩa trước hết là đối diện với thực tại cuộc đời của chính chúng ta, nhưng cũng có nghĩa là ý thức về các thực tại của những người sống xung quanh chúng ta. Tuy nhiên, rõ ràng một thái độ như thế bắt đầu với thực tại của chính chúng ta trước mặt Thiên Chúa, Đấng chúng ta đối diện vào những lúc thinh lặng trong kinh nguyện hằng ngày của chúng ta.

3. Dạy một Thần học ‘truyền thông’

Nếu chúng ta theo Avery Dulles nhìn mọi lãnh vực của thần học như là những cách diễn tả sự truyền thông của Thiên Chúa (xem ở trên, Phần I, 1 Thần học Truyền thông), việc giảng dạy thần học của chúng ta cũng phải mang chiều kích này. Nó phải bắt đầu với thực tại của đời sống và bao gồm thực tại này, sự truyền thông giữa con người với nhau cũng như thực tại của nền văn hoá truyền thông đại chúng của chúng ta. Nếu truyền thông đại chúng phản ánh thực tại xã hội, và nếu theo Gerbner, chúng là những dấu chỉ xã hội, nghĩa là những dấu chỉ về tình trạng và tình hình của xã hội chúng ta, thì chúng cũng có thể dạy chúng ta điều gì đó về tình hình của những người sống quanh chúng ta và thế giới của họ.

Vì vậy chúng ta phải học biết đánh giá một cách có phê phán ‘văn hoá mới’ này (RM 37c) của truyền thông, và điều này đòi hỏi các linh mục và chủng sinh phải có ít là một nền giáo dục cơ bản về các phương tiện đại chúng và truyền thông. Đồng thời họ cũng phải học biết sử dụng các phương tiện này một cách đầy sáng tạo. Do đó chúng ta phải phát hiện và phát triển các tài năng có thể phát sinh từ việc lắng nghe sâu xa (xem số 1) thông điệp Kitô giáo và có khả năng ‘sử dụng’ cả một chuỗi đa dạng các phương tiện hiện đại, gồm cả Internet, vì lợi ích của dân chúng. Chúng ta cần có các linh mục và chủng sinh theo mẫu truyền thông Kitô giáo để họ mở rộng lòng ra với thông điệp và nhờ đó trở thành những sứ giả đương đại cho Lời của Thiên Chúa.

4. Chứng tá đời sống

Sau cùng, chính chứng tá đời sống của chúng ta là cái truyền thông nhiều nhất cho dân chúng. Một giám mục xây một dinh thự trị giá nhiều triệu đôla giữa khu dân cư nghèo đói bần cùng sẽ là một phản chứng tá cho đức tin chúng ta.

Không phải vô lý khi Đức Phaolô VI trong Tông huấn Evangelii Nuntiandi đã nhấn mạnh ít là ba lần về nhu cầu làm chứng tá. Trong danh sách các phương tiện Rao giảng Tin Mừng, ngài đặt chứng tá lên số một. (Xem thêm chi tiết ở Phần I, 3.1).

Hội Thánh là một tổ chức công cộng và vì thế không thể tránh khỏi bị để ý hay phê phán. Với mọi linh mục cũng thế. Họ là một nhân vật công cộng. Họ không thể tránh khỏi người ta nhìn và phê phán và từ đó phát sinh các thái độ mà có thể được kích thích bởi chính linh mục. Nếu linh mục cởi mở và giỏi giao tiếp, thì những người sống quanh họ cũng sẽ tỏ ra một thái độ giống như thế. Nếu linh mục là một người truyền thông đích thực, những người sống quanh họ cũng sẽ truyền thông với họ.

Đây chỉ là một số hậu quả cần phải xét đến cho việc đào luyện truyền thông trong thừa tác vụ linh mục. Một sự đào luyện như thế phải là toàn diện và đồng thời đặt nền vững chắc trên linh đạo sâu xa của cá nhân và cộng đồng. Sự đào luyện này cố gắng nhìn và xử lý các thực tại cá nhân và cộng đồng, và phát huy một sự sáng tạo có thể được diễn tả qua việc sử dụng các phương tiện truyền thông đương đại, là những cái ngày càng ảnh hưởng mạnh đối với xã hội.

4.3.6. Ngày Thế giới Truyền thông

Qua văn kiện về Truyền thông Xã hội Inter Mirifica (số 18), Công đồng Vatican II đã thiết lập ‘Ngày Thế giới Truyền thông’. Trong văn kiện này, các Nghị Phụ Công Đồng nói: “Để việc tông đồ dưới nhiều hình thức của Hội Thánh được hiệu quả hơn trong lĩnh vực truyền thông xã hội, mỗi giáo phận trên thế giới, tuỳ theo quyết định của giám mục, hằng năm phải cử hành một ngày lễ để nhắc nhở các tín hữu về bổn phận của họ trong lĩnh vực này. Phải xin họ cầu nguyện cho sự thành công của hoạt động tông đồ của Hội Thánh trong lĩnh vực này và đóng góp cho mục đích này, các đóng góp của họ phải được sử dụng một cách nghiêm túc để hỗ trợ và đẩy mạnh sự phát triển của các dự án mà Hội Thánh đã khởi xướng vì nhu cầu của toàn thể Hội Thánh.” Ngày Truyền Thông Xã Hội lần đầu tiên được cử hành vào ngày 6-5-1968 và kể từ đó nó đã trở thành một sự kiện thường kỳ. Mỗi năm, Toà Thánh đưa ra một chủ đề và Đức Giáo Hoàng công bố một thông điệp đặc biệt cho dịp này, thường được đề ngày 24-1, lễ Thánh Phanxicô Salê, bổn mạng của các nhà báo Công giáo. Hội đồng Giáo hoàng (về Truyền thông) hỗ trợ cho thông điệp này của Giáo hoàng bằng các bản văn phụng vụ, các bài suy tư và các lời cầu nguyện cho dịp này. Ngày được toàn thế giới công nhận là ngày Chúa Nhật giữa lễ Lên Trời và lễ Hiện Xuống, nhưng mỗi HĐGM hay thậm chí mỗi giáo phận cũng có thể tuỳ nghi chọn ngày riêng cho mình.

Ngày Thế giới Truyền thông là một dịp đặc biệt cho việc truyền thông mục vụ: Nó cống hiến cơ hội cho các tín hữu hiểu biết về tầm quan trọng của truyền thông xã hội trong sứ mạng và trong hoạt động của Hội Thánh, và kêu gọi họ cầu nguyện cũng như nâng đỡ bằng tinh thần và tài chánh cho việc tông đồ truyền thông. Nó cống hiến cho Hội Thánh một cơ hội để đánh giá cao và cảm ơn các chuyên gia truyền thông vì việc phục vụ của họ cho cộng đồng. Tại một số nơi, giám mục hay cá nhân các linh mục mời các người truyền thông đến để cám ơn họ và cùng nhau mừng lễ. Những nơi khác sử dụng dịp này để tung ra các dự án mới hay mời gọi dân chúng đóng góp các ý tưởng và gợi ý các đề xuất về truyền thông. Tại một số quốc gia, người ta làm và phân phát các áp phích tuyên truyền; người ta cũng mở các cuộc triển lãm để làm nổi bật mối quan tâm của chủ đề năm ấy. Các cuộc hội thảo và các khoá đào tạo đặc biệt cũng có thể được tổ chức để sử dụng dịp này vào việc đào tạo hay phát hiện các tài năng cho công việc truyền thông của Hội Thánh trong một giáo phận hay một quốc gia.

Trong thông điệp cho năm 1992 (Chủ đề: “Rao giảng thông điệp của Đức Kitô trong các phương tiện truyền thông”), ĐGH Gioan Phaolô II đã mô tả mục đích của ngày này như sau: “Vào ngày này, chúng ta cử hành lễ mừng những phúc lành của khả năng nói, nghe và nhìn, giúp chúng ta ra khỏi tình trạng cô độc và cô đơn để trao đổi với những người sống xung quanh chúng ta các tư tưởng và tình cảm phát sinh trong lòng mình. Chúng ta mừng hồng ân viết và đọc, chúng truyền lại cho chúng ta sự khôn ngoan của tiền nhân, để rồi các kinh nghiệm và suy tư của chính chúng ta lại được lưu truyền cho các thế hệ sau. Rồi, nếu chúng ta ít để ý đến những điều kỳ diệu này, thì chúng ta cũng phải nhìn nhận những điều kỳ diệu còn lạ lùng hơn nữa: ‘những điều kỳ diệu của kỹ thuật mà Thiên Chúa đã định cho thiên tài của loài người khám phá ra’ (IM, số 1), những phát minh đã tăng lên vô số trong thời đại chúng ta và đã khuyếch đại tiếng nói của chúng ta khiến cho cùng một lúc nó có thể lọt vào tai của những đám đông không thể nào đếm nổi. Các phương tiện truyền thông - chúng ta không loại trừ một phương tiện nào trong lễ mừng này - là tấm vé vào cửa của mọi người, nam cũng như nữ, để đi vào thị trường đương đại nơi các tư tưởng được nói lên một cách công khai, nơi các ý tưởng được trao đổi, các tin tức được lưu chuyển, và thông tin đủ loại được phát đi và tiếp nhận (x. Redemptoris Missio, số 37). Chúng ta ngợi khen Cha trên Trời vì tất cả những hồng ân này, vì ‘mọi ơn lành và mọi phúc lộc hoàn hảo’ (Gc 1,17) đều đến từ Người”.

Các chủ đề và các thông điệp cho Ngày Thế giới Truyền thông kể từ năm 1968 đã tạo thành một kho tàng phong phú về các suy nghĩ và các mối quan tâm của Hội Thánh đối với truyền thông xã hội. Một số chủ đề có tác động đặc biệt đối với hoạt động truyền thông mục vụ, như khi chúng liên quan đến gia đình (1969, 1979, 1980, 1991, 1994, 2004), trẻ em (1979) và giới trẻ (1979, 1985), phụ nữ (1996), và người già (1982), cổ võ công lý và hoà bình (1983, 1987, 1988, 2003), và hoà giải (1975); máy tính và Internet (1990, 2002), và rao giảng Tin Mừng (1974, 1992, 2002).

Còn tiếp



+ Trích đoạn từ một bài tham luận cho HĐGM Malaysia, Singapore và Brunei tại Johor Bahru, Malaysia, ngày 14-1-2002; xem Eilers 2002b, 11-26.

Lm. Franz-Josef Eilers, SVD
In ngày: 21/11/2024
Website: Truyền bá Tin Tức Công Giáo
Print