Ấn bản thứ hai
Nguyên bản: COMMUNICATING IN MINISTRY AND MISSION
Tác giả: FRANZ-JOSEF EILERS, SVD
***
PHẦN III
TRUYỀN THÔNG TRONG TRUYỀN GIÁO
5. Đối thoại như là truyền thông truyền giáo
Đối thoại là một hình thức đặc biệt nhưng rất phổ biến của mọi việc truyền thông. Trong việc truyền thông của các tổ chức, đối thoại là “thành phần của đời sống tổ chức hằng ngày”. Ta không được coi nó chỉ như là một cách đặc biệt để cải thiện các mối quan hệ, phát triển “sự khôn ngoan đối thoại” như một số nhà nghiên cứu quan niệm. Đúng hơn, như Kevin Barge và Martin Little (2002, tr. 376) đề nghị, nó là “một cách sống với người khác, đối lập với một cách chỉ suy nghĩ qua các vấn đề và các khó khăn”.
Từ sau Tuyên Ngôn Nostra Aetate về quan hệ giữa Hội Thánh với các Tôn giáo ngoài Kitô giáo (28-10-1965) và Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes về Hội Thánh trong Thế giới Hôm nay (7-12-1965), đối thoại đã trở thành một phần thiết yếu của truyền thông truyền giáo. Cả hai văn kiện trên đều chủ trương đường lối đối thoại trong hoạt động truyền thông của Hội Thánh.
Ngay từ Đại hội đầu tiên của Liên đoàn Giám mục Châu Á (FABC) năm 1974 tại Đài Bắc (x. Rosales/Arevalo 1997, 11-25), tại Châu Á đã có ít là 3 bình diện hay 3 lĩnh vực đặc biệt cho đối thoại của Hội Thánh trong truyền thông truyền giáo: Đối thoại với các tôn giáo khác, đối thoại với dân chúng, đặc biệt với người nghèo, và đối thoại với các nền văn hoá. Lẽ đương nhiên đối thoại đại kết là yếu tố cơ bản cho cả ba lãnh vực đối thoại này nếu Kitô giáo muốn nói vào một môi trường phi-Kitô giáo bằng một tiếng nói thống nhất.
5.1. Đối thoại liên tôn
Theo cách nói của Redemptoris Missio (số 55), đối thoại liên tôn là “một phần của sứ mạng truyền giáo của Hội Thánh”, và vì thế nó là yếu tố cơ bản trong mọi việc truyền thông truyền giáo. Tuyên ngôn Nostra Aetate tuyên bố: “Hội Thánh Công giáo không hề phủ nhận những gì là chân thật và thánh thiện nơi các tôn giáo đó. Hội Thánh xét thấy những phương thức hành động và lối sống, những huấn giới và giáo thuyết kia, tuy rằng có nhiều điểm khác với chủ trương mà Hội Thánh duy trì, nhưng cũng thường đem lại ánh sáng của Chân Lý, Chân Lý chiếu soi cho mọi người... Vì thế, Hội Thánh khuyến khích con cái mình nhìn nhận, duy trì và cổ động cho những thiện ích thiêng liêng cũng như luân lý và các giá trị xã hội văn hoá của các tín đồ thuộc các tôn giáo khác, bằng con đường đối thoại và hợp tác cách thận trọng và bác ái với tín đồ các tôn giáo ấy...”. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI tiếp nối chủ trương này trong Evangelii Nuntiandi (1975, số 53) khi nói rằng Hội Thánh “tôn trọng và đánh giá cao các tôn giáo ngoài Kitô giáo này, vì đó là những biểu hiện sống động của các nhóm người rất đông đảo. Họ mang theo nơi mình âm vang của hàng ngàn năm tìm kiếm Thiên Chúa, một cuộc tìm kiếm vẫn còn chưa đầy đủ nhưng thường phát xuất từ lòng chân thành và tâm hồn ngay thẳng”.
Redemptoris Missio (số 57) nhìn thấy có các đường lối và phương tiện khác nhau để thể hiện sự đối thoại này: “Từ các cuộc trao đổi giữa các chuyên gia về các truyền thống tôn giáo hay các đại diện chính thức của các truyền thống này tới sự hợp tác cho một sự phát triển toàn diện và bảo vệ các giá trị tôn giáo, và từ sự chia sẻ các kinh nghiệm thiêng liêng của mỗi tôn giáo tới cái gọi là ‘đối thoại đời sống’, qua đó các tín hữu của các tôn giáo khác nhau dùng đời sống của mình làm chứng cho người khác về các giá trị nhân bản và thiêng liêng của mình, và giúp nhau sống theo các giá trị ấy để xây dựng một xã hội công bằng và huynh đệ hơn”. Tông huấn Ecclesia in Asia (số 31) bổ sung mối quan tâm này khi trích dẫn các nghị quyết của Thượng Hội Đồng Giám Mục Châu Á: “Các mối quan hệ liên tôn được phát triển tốt nhất trong một bối cảnh cởi mở với các tín hữu của các tôn giáo khác, thiện chí lắng nghe và ước muốn tôn trọng và hiểu biết các tôn giáo khác trong sự khác biệt của họ. Để đạt những điều này, lòng bác ái đối với người khác là yếu tố không thể thiếu. Nó phải dẫn đến sự hợp tác, hoà hợp và làm giàu lẫn cho nhau”.
Hết mọi người được kêu gọi đến với cuộc đối thoại này và nhờ đó tham gia vào việc truyền thông truyền giáo của Hội Thánh. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II quả quyết trong Redemptoris Missio: “Tôi rất ý thức rằng nhiều nhà truyền giáo và cộng đoàn Kitô giáo coi con đường đối thoại đầy chông gai và thường bị hiểu lầm này là cách duy nhất để họ nêu lên chứng tá chân thật về Đức Kitô và cống hiến việc phục vụ quảng đại cho tha nhân. Tôi muốn khích lệ họ kiên trì làm việc này với đức tin và đức mến, cả ở những nơi mà các cố gắng của họ không được hoan nghênh. Đối thoại là một con đường dẫn tới Nước Thiên Chúa và chắc chắn sẽ sinh hoa kết quả, dù rằng chỉ một mình Chúa Cha biết thời gian và kỳ hạn (x. Cv 1,7).
Có thể liệt kê các lý do và lợi ích như sau (Schoen, 1997, tr. 110):
Đối thoại liên tôn
- Giúp giải toả các hiểu lầm
- Cải thiện các mối quan hệ
- Giải thoát con người khỏi sợ hãi lẫn nhau
- Góp phần đào sâu đức tin của mình
- Dẫn tới hợp nhất hơn
5.2. Đối thoại với dân chúng/người nghèo
Tại Đại Hội đầu tiên của Liên Hội Đồng Giám Mục Châu Á (FABC) năm 1974 ở Đài Bắc, các giám mục Châu Á đã nêu lên nhu cầu đối thoại với dân chúng và đối thoại đời sống. Với chủ đề của Đại hội là “Loan báo Tin Mừng tại Châu Á Ngày nay”, các giám mục tuyên bố rằng cuộc đối thoại này ở Châu Á có nghĩa là đối thoại với những người nghèo bởi vì “phần lớn dân Châu Á là những người nghèo” (số 19).
Về phương diện truyền thông truyền giáo, đối thoại này bao gồm “một kinh nghiệm và hiểu biết đích thực về tình trạng nghèo khổ, thiếu thốn và áp bức của quá nhiều người”. Truyền thông truyền giáo không nên là truyền thông cho họ nhưng với họ để hiểu “các nhu cầu và khát vọng thực sự của họ”. Đối thoại như thế phải dẫn tới nhiều “công bằng xã hội trong các xã hội chúng ta” hơn. Phương thức truyền thông này cũng phải giúp “gây ý thức” (Paolo Friere) cho dân chúng để họ “lãnh trách nhiệm và tham dự thực sự vào các quyết định định đoạt cuộc đời họ” và nhờ đó họ tự giải phóng mình. Sự truyền thông này mang tính chất tham dự và giúp phát triển cũng như giải phóng các sức mạnh sáng tạo nơi những người tham gia tiến trình truyền thông.
5.3. Đối thoại với các nền văn hoá
Hiến Chế Gaudium et Spes của Vatican II về Hội Thánh trong Thế giới Hôm nay (1965) mở cửa cho phương thức đối thoại với thế giới đương đại. Một cách đặc biệt phương thức này cũng bao gồm sự đối thoại với các nền văn hoá. Văn hoá là một biểu hiện về cách sống của dân chúng và vì vậy không những nó là một môi trường truyền thông đặc biệt mà còn cung cấp và ảnh hưởng tới những cách thức và phương tiện truyền thông trong một xã hội nhất định. Điều này làm cho việc đối thoại văn hoá đặc biệt quan trọng đối với hoạt động truyền thông truyền giáo: mọi việc truyền thông đều diễn ra trong một nền văn hoá nhất định và phải thích nghi với nó. Vì vậy các suy tư của Gaudium et Spes về văn hoá (các số 52-62) có tầm quan trọng đặc biệt.
Vì Thiên Chúa “nói theo nền văn hoá riêng của mỗi thời đại”, nên Hội Thánh cũng “đã sử dụng các nguồn lực của các nền văn hoá khác nhau trong việc rao giảng của mình để truyền bá và cắt nghĩa thông điệp của Đức Kitô.” Vì vậy, “Tin Mừng của Đức Kitô không ngừng canh tân đời sống và văn hoá” (số 58).
Mọi việc truyền thông truyền giáo đều gắn chặt vào một tình hình đối thoại văn hoá như thế. Các cách thức và phương tiện truyền thông luôn luôn là một phần của mọi biểu hiện văn hoá và phải được tôn trọng và phát huy. Văn kiện trích dẫn một ví dụ khi nhắc đến các cách diễn tả khác nhau của nghệ thuật là cái tìm cách “cung cấp cách diễn tả cho nền văn hoá của con người, các vấn đề và kinh nghiệm của họ nhằm cố gắng khám phá và hoàn thiện mình trong thế giới họ đang sống” (số 62).
Theo cách này, truyền thông truyền giáo cũng là một phần thiết yếu của mọi sự hội nhập văn hoá. Đức tin Kitô giáo không thể trở thành một phần của một nền văn hoá tự bên trong nếu không được truyền thông và hội nhập nhờ truyền thông, đặc biệt nếu sự truyền thông này không chỉ được coi là một sự ‘truyền tải’ đơn thuần nhưng là một sự kiện ‘nghi thức’ theo cách hiểu của James Carey. Sự phát triển mau lẹ của lãnh vực truyền thông liên văn hoá cũng là một biểu hiện của mối quan tâm này.
6. Truyền thông liên văn hoá và truyền giáo
Truyền thông truyền giáo liên hệ rất mật thiết với lĩnh vực truyền thông liên văn hoá, một lĩnh vực đang phát triển rất nhanh trong ngành truyền thông xã hội. Việc chia sẻ đức tin với những người khác rất thường diễn ra xuyên qua các biên giới văn hoá và trên thực tế, làm công việc này là một phần thiết yếu của Hội Thánh được sai đi truyền giáo. Vào những ngày đầu của lịch sử Hội Thánh, cộng đoàn Kitô giáo lớn lên từ môi trường văn hoá Do Thái rồi đi vào văn hoá Hy Lạp và các nền văn hoá khác. Theo tường thuật của sách Công vụ Tông đồ (chương 15), Công đồng Giêrusalem là một ví dụ đầu tiên cho thấy việc truyền thông truyền giáo đã được thích nghi và vượt từ một nền văn hoá này sang một nền văn hoá khác như thế nào. Thực vậy, toàn thể lịch sử truyền giáo của Hội Thánh là một câu truyện về truyền thông liên văn hoá. Câu truyện này mở đầu với sự khai sinh của Hội Thánh vào ngày lễ Hiện Xuống, trong ngày ấy các dân thuộc mọi nền văn hoá của thời đó đều có mặt ở Giêrusalem và trải nghiệm sự tuôn đổ Chúa Thánh Thần trên họ, và như thế đánh dấu khởi đầu của việc truyền thông Kitô giáo (xem sách Công vụ Tông Đồ, chương 2).
Truyền thông liên văn hoá quan tâm tới việc truyền thông giữa những con người hai hay nhiều nền văn hoá khác nhau. Các nhận thức, quy luật và kinh nghiệm của lĩnh vực này cũng có vai trò quyết định rất lớn đối với việc truyền thông truyền giáo. Thành ngữ truyền thông ‘xuyên văn hoá’ (cross-cultural) đôi khi được dùng với cùng một ý nghĩa này. Nhưng nếu xét kỹ hơn chúng ta sẽ thấy rằng thành ngữ ‘liên văn hoá’ (intercultural) thì thích hợp với truyền thông truyền giáo hơn. Đối với nhiều người, thành ngữ ‘truyền thông xuyên văn hoá’ hàm ý ‘vượt qua một biên giới’ nhằm áp đặt hay thậm chí sủ dụng nền văn hoá khác cho mục đích riêng của mình như tiếp thị hay bán hàng hoá trong nền văn hoá ấy. Tôi ‘vượt biên’ để vào một nền văn hoá khác không phải để hiểu rõ hơn và tích hợp nhưng để ‘sử dụng’ nền văn hoá ấy cho mục đích riêng của tôi như “Làm thế nào để bán được hàng trong nền văn hoá Nhật?” để tăng lợi nhuận của tôi.
Phương thức ‘xuyên văn hoá’ có vẻ như mang tính thống trị nhiều hơn và ít quan tâm thực sự hơn đối với các văn hoá khác. Ngược lại, truyền thông ‘liên văn hoá’ cố gắng cư xử bình đẳng với người khác và nhằm mục đích chia sẻ các mối quan tâm và kinh nghiệm chung, mặc dù chúng có thể được diễn tả bằng những cách thức văn hoá khác nhau. Truyền thông truyền giáo không quan tâm tới việc muốn thống trị một ai hay áp đặt Tin Mừng cho ai bằng mọi giá. Ngược lại, nó muốn chia sẻ Lời Thiên Chúa và để cho Chúa Thánh Thần tác động đến những con người có liên quan. Nó là một sự truyền thông trên cơ sở bình đẳng giữa A và B giống như trong sự đồng thuận của mẫu truyền thông của Rogers và Kincaid hay mẫu nghi thức của James Carey (x. Eilers, 2002, tr. 30tt).
Truyền thông liên văn hoá cũng như truyền thông truyền giáo được quyết định trước tiên bởi hình thức truyền thông bằng lời hay không bằng lời. Truyền thông không bằng lời là một lãnh vực rất rộng nhưng rất quan trọng cho sự hiểu biết lẫn nhau giữa các văn hoá khác nhau. Rất thường xuyên các sự việc được ‘nói’ không bằng lời hơn là bằng lời. Và cách thức này có thể rất khác nhau giữa hai nền văn hoá. Cùng một cách diễn tả ‘không lời’ có thể có một nghĩa hoàn toàn khác trong một nền văn hoá khác. Chỉ khi chúng ta biết được ý nghĩa thực sự của cách diễn tả ‘không lời’, chúng ta mới có thể thực sự tham dự vào một tiến trình truyền thông liên văn hoá. Ở một mức độ khá lớn, Truyền thông Truyền giáo cũng bao gồm những dấu hiệu ‘không lời’. Nhiều khi các hành động của một người và niềm tin trong tâm hồn họ có tác dụng truyền thông và chứng tá không bằng lời nhiều hơn là bằng lời.
Mặt khác, lời nói cũng có ý nghĩa và sức mạnh riêng của nó. Lời Thiên Chúa luôn giữ vị trí trung tâm trong việc truyền thông truyền giáo và điều quan trọng là cắt nghĩa và dịch lời này như thế nào, không chỉ bằng miệng, sang các nền văn hoá khác. Các nhà phiên dịch Kinh Thánh đã nỗ lực nhiều năm để tìm ra cách thức đúng nhằm phản ánh ý nghĩa thực sự của Lời Thiên Chúa sao cho nó cũng phù hợp với ý nghĩa trong một nền văn hoá nhất định. Các tác giả như Charles Kraft (Christianity in Culture) và Eugene Nida (Message and Mission, 1990) là những ví dụ điển hình về nỗ lực ấy nhờ đó họ cũng đóng góp một phần quan trọng vào việc truyền thông liên văn hoá theo cách hiểu Kitô giáo.
Ngoài ra, truyền thông liên văn hoá cũng như truyền thông truyền giáo còn được quyết định bởi thế giới quan của những người liên quan tới tiến trình này. Các giá trị và các niềm xác tín của họ, các câu truyện và kinh nghiệm của họ thường là một biểu hiện về thế giới quan của họ và là một cơ sở để đức tin và đời sống Kitô giáo có thể được chia sẻ và ăn rễ sâu trong đó. Các cơ cấu xã hội cũng rất thường ảnh hưởng đến cách thức truyền thông truyền giáo. Ai nói cho ai và nói cách nào thường được quyết định bởi các cấu trúc như thế của một xã hội nhất định.
Về cơ bản, tất cả cuộc tranh luận về hội nhập văn hoá giữa các nhà truyền giáo học và các nhà thần học cũng là một vấn đề về truyền thông liên văn hoá: truyền thông liên văn hoá như thế nào và truyền thông truyền giáo bằng những cách nào và những phương tiện gì. Kinh nghiệm đức tin Kitô giáo có thể được truyền thông và tích hợp vào một nền văn hoá như thế nào để nó trở thành một thành phần cốt yếu và không thể thiếu? (x. Redemptoris Missio, số 52).
Đối thoại liên tôn là một biểu hiện và áp dụng cụ thể nữa của việc truyền thông truyền giáo và liên văn hoá. Tôn giáo quyết định rất nhiều các nền văn hoá, và đối thoại giữa các tôn giáo một phần lớn cũng là đối thoại và truyền thông giữa các nền văn hoá. Truyền thông truyền giáo nhìn thấy ở đây một lãnh vực quan tâm đặc biệt bởi vì mục đích của nó trước tiên không phải là cải đạo mà là khởi sự một cuộc chia sẻ các kinh nghiệm đức tin và các niềm xác tín xuyên qua các biên giới văn hoá và tôn giáo (x. Redemptoris Missio 1990, số 55-57). “Qua đối thoại, Hội Thánh tìm cách mở ra những ‘hạt giống của Lời’, mở ra một ‘tia sáng của sự thật chiếu soi mọi người’; các hạt giống này được tìm thấy nơi các cá nhân và các truyền thông tôn giáo của loài người. Đối thoại được đặt nền trên hy vọng và yêu thương, và sẽ sinh hoa kết quả trong Thánh Thần. Các tôn giáo khác tạo thành một thách đố tích cực cho Hội Thánh: các tôn giáo ấy kích thích Hội Thánh khám phá và nhận ra những dấu chỉ về sự hiện diện của Đức Kitô và hoạt động của Thánh Thần, cũng như xem xét sâu hơn về căn tính của mình... (RM, số 56; x. Ecclesia in Asia, số 29).
Để tìm hiểu chi tiết hơn về truyền thông liên văn hoá dưới góc nhìn Kitô giáo và truyền giáo, xem: Franz-Josef Eilers, Communicating between Cultures, 2nd Edition, Manila (Divine Word), 1992.
7. Các phương tiện truyền thông truyền giáo
Có nhiều phương tiện khác nhau để dùng cho việc truyền thông truyền giáo. Các phương tiện này bao gồm từ phương pháp truyền thông của truyền thống không có phương tiện kỹ thuật đặc biệt nào cho tới các phương tiện của truyền thông đại chúng và các phương tiện hiện đại trong không gian mạng.
Truyền thông người-với-người và các phương tiện của ‘truyền thống’
Chúng ta luôn luôn học hỏi được nhiều điều khi đọc Công vụ Tông đồ như quyển sách đầu tiên về truyền thông truyền giáo của Hội Thánh. Thời ấy không có các phương tiện đại chúng hay các kỹ thuật đặc biệt cho việc truyền thông. Chính các lời nói bằng miệng, các rao giảng và dạy dỗ và đặc biệt các chứng tá của đời sống cá nhân và cộng đoàn là những cái thuyết phục được người ta và đưa họ đến với đức tin. Đồng thời mọi Kitô hữu tự nhận thấy nhu cầu truyền thông truyền giáo khi họ đi đến bất cứ đâu.
Từ đó, chỉ trong một thời gian ngắn, đức tin Kitô đã từ Israel lan tới toàn vùng Địa Trung Hải cho tới Rôma và tới tận Tây Ban Nha. Các phương tiện truyền thông được dùng cho việc này chỉ là truyền thông từ người đến người và từ cộng đoàn tới cộng đoàn qua những chứng tá cá nhân, các thư từ và truyện kể. Một cách đặc biệt, chính Thánh Thần đã thúc đẩy các Kitô hữu tiên khởi vào việc truyền thông truyền giáo. Họ chăm chú lắng nghe và đi theo sự soi sáng của Người. Vào lễ Hiện Xuống, cả thế giới của thời ấy đều tụ tập và nghe những lời giảng tràn đầy Thánh Thần của Thánh Phêrô. Ngày nay, truyền thông truyền giáo cũng phải bắt đầu theo cách ấy. Chính con người cởi mở và đầy tràn Thánh Thần có sức truyền thông tốt nhất.
Trong số tám phương pháp hay phương tiện truyền giáo khác nhau được mô tả trong Tông huấn Mục vụ Evangelii Nuntiandi (1975, các số 40-48), 7 phương pháp có liên quan tới cách thức truyền thông, mà hầu hết đều không nhắc đến một phương tiện kỹ thuật nào ngoài một ít sách hay tài liệu giảng dạy. Các phương pháp này dựa trên sự chia sẻ người với người của các cá nhân hay các nhóm như trong các cuộc cử hành phụng vụ. Truyền thông bằng dạy giáo lý, giảng, chứng tá và truyền thông người với người thường không cần những dụng cụ hay kỹ thuật đặc biệt nào để truyền thông. Ecclesia in Asia (số 20) đưa ra một hướng cơ bản khi nói rằng “sứ vụ của chính Đức Giêsu cho thấy rõ giá trị của sự tiếp xúc cá nhân, nó đói người rao giảng Tin Mừng phải lưu tâm tới hoàn cảnh của người nghe để có thể cống hiến nhũng lời rao giảng phù hợp với mức độ trưởng thành của người nghe, với một hình thức và một ngôn ngữ thích hợp. Dưới góc nhìn này, các nghị phụ Thượng Hội Đồng nhiều lần nhấn mạnh nhu cầu phải rao giảng phải thế nào để lôi cuốn được sự nhậy cảm của các dân tộc Châu Á...”.
Lòng đạo đức bình dân là phương tiện truyền giáo được liệt kê cuối cùng trong Evangelii Nuntiandi. Lòng đạo đức này được xây dựng rất nhiều trên các phương tiện truyền thống như chia sẻ nhóm, hành hương, ca hát, diễn kịch, hoạt cảnh, ca múa hay các phương tiện tương tự để diễn tả “một khát vọng về Thiên Chúa mà chỉ những con người đơn sơ nghèo khổ mới có thể cảm nghiệm. Nó làm cho người ta trở nên quảng đại và có thể hi sinh tới mức anh hùng khi cần phải biểu lộ niềm tin” (số 48).
Đây cũng là một trường hợp điển hình cho thấy rằng trong mọi việc truyền thông giữa con người với nhau, các yếu tố cơ bản như lắng nghe, hiểu biết và kính trọng lẫn nhau, và cả sự quan tâm lẫn nhau phải được bộc lộ như thế nào. Một sự truyền thông nhân bản trong đó người ta cảm thấy mình được thấu hiểu và được chấp nhận cũng là một cách diễn tả sự truyền thông truyền giáo vì nó phản ánh thái độ nhân bản của Đức Kitô đối với dân chúng, đặc biệt những người nghèo khổ.
Về cách truyền thông này, các giám mục Châu Á khuyến khích phương pháp kể truyện: “Nên chọn phương pháp kể truyện vì chúng gần gũi với các hình thức văn hoá của Châu Á. Thực vậy, việc rao giảng về Đức Giêsu Kitô có thể được thực hiện một cách hiệu quả nhất nhờ kể truyện về Người, như các sách Tin Mừng đã làm. Các khái niệm siêu hình liên hệ... có thể được bổ sung bằng các bối cảnh có tính quan hệ, lịch sử và vũ trụ hơn” (Ecclesia in Asia số 20).
Các hình thức và phương pháp khác được dùng trong việc giáo dục không chính quy cũng có giá trị cho việc truyền thông truyền giáo. Chẳng hạn, các câu truyện và các tiêu chuẩn khác nhau để sử dụng chúng có thể rất hữu ích. Kịch nghệ và trò chơi cũng có thể dẫn đến một sự hiểu biết sâu hơn về thông điệp Kitô giáo. Các phương tiện truyền thông truyền thông lâu đời như ca múa, kịch, hành hương và hình ảnh, có thể gọi là ‘truyền thông nhóm’, là một phần có liên quan và cốt yếu của mọi việc truyền thông truyền giáo.
Để có một trình bày chi tiết về các phương pháp này, xem: Yvon Ambroise, P. John Britto: Methods of Nom-Formal Education. APSSS Publications, Secunderabad (India) 2002.
Truyền thông nhóm
Tất cả các kinh nghiệm về truyền thông nhóm trong hoạt động mục vụ (xem Phần II, 5.2) cũng phải được áp dụng cho truyền thông truyền giáo. Tuy nhiều khi nó có thể bắt đầu bằng việc truyền thông người với người, nhưng việc chia sẻ đức tin cũng diễn ra trong các nhóm như trong nhiều trường hợp đối thoại liên tôn. Ở đây cũng vậy, cần phải lưu tâm tới tâm trạng của những người tham dự cũng như môi trường vật chất và tinh thần. Các kinh nghiệm tôn giáo trong cộng đoàn là một phần của việc truyền thông nhóm, cũng như các lễ nghi tôn giáo phối hợp như các buổi cầu nguyện chung, các cuộc chia sẻ kinh nghiệm đức tin và cả cuộc thảo luận về các hành động phối hợp vì một lợi ích chung.
Truyền thông đại chúng phục vụ truyền giáo
Trong các Thông điệp ban đầu về Truyền giáo của các ĐGH Bênêđictô XV, Piô XI và Piô XII, việc sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng cho việc truyền giáo được coi là một cơ hội mới và quan trọng mà Hội Thánh phải tận dụng. Như Đức Phaolô VI viết trong Evangelii Nuntiandi (số 45), đã được chúng ta trích dẫn nhiều lần: “Hội Thánh sẽ cảm thấy có lỗi trước mặt Thiên Chúa nếu không vận dụng các phương tiện mạnh mẽ này mà tài năng con người không ngừng làm cho phát triển và hoàn thiện mỗi ngày”. ĐGH có thể hơi quá lạc quan khi cho rằng các phương tiện đại chúng “có khả năng gia tăng hầu như vô hạn lĩnh vực mà trong đó Lời Thiên Chúa được nghe thấy”, nhưng quả thực chúng mở ra những tiềm năng ghê gớm cho việc truyền giáo. Đúng là các phương tiện đại chúng giúp cho Tin Mừng đến được với hàng triệu con người.
Trong các thông điệp ban đầu về truyền giáo, các ĐGH chủ yếu khuyến khích việc sử dụng sách báo cho việc truyền thông truyền giáo, bởi vì “ai cũng biết rằng báo chí có thể được dùng một cách hiệu quả như thế nào để trình bày sự thật và nhân đức trong chính ánh sáng của chúng và nhờ đó tạo ấn tượng trên tâm trí con người, hay để phơi bày các lý luận sai lạc được nguỵ trang dưới cái vỏ sự thật, hay để bác bỏ một số ý kiến sai lầm nghịch với tôn giáo hay gây thiệt hại lớn về thiêng liêng bằng cách trình bày một cách xuyên tạc các vấn đề gai góc của xã hội” (Piô XII, Evangelii Praecones, 1951).
Các phương tiện truyền thông sẽ còn tiếp tục thống trị đời sống chúng ta. Chúng sẽ cho chúng ta tin tức, thông tin và giải trí. Nhưng nó còn tuỳ thuộc rất nhiều vào cách chúng ta phản hứng thế nào trước cái ‘nơi họp chợ’ hiện đại này. Trong lĩnh vực truyền thông truyền giáo, chúng ta có thể sở hữu các phương tiện truyền thông ấy, như chúng ta làm chủ Đài Chân Lý Á Châu (Radio Veritas Asia), đài phát thanh châu lục duy nhất của Hội Thánh tại Châu Á, và cả các đài phát thanh địa phương, các nhật báo và các công trình truyền thông khác. Nhưng chúng ta cũng có thể thử đi vào các doanh nghiệp truyền thông hiện có bằng cách cung cấp hay bán các sản phẩm của chúng ta, cống hiến các chuyên gia và các ý tưởng cho các doanh nghiệp này, không phải để trực tiếp chiêu dụ người ta theo đạo nhưng để tỏ sự quan tâm của chúng ta đối với cuộc sống, công ích, và để nêu một gương sáng của đời sống Kitô giáo. Tuy nhiên, tất cả các việc này đòi phải có nhân sự có trình độ ngang tầm với các chuyên gia ngoài đời về khả năng truyền thông và quản lý truyền thông. Đôi khi cũng cần có một sự tham gia tài chánh nào đó.
Chúng ta phải ý thức hơn nữa về các phát triển mới nhất trong lãnh vực truyền thông, chúng vạch ra cho chúng ta thấy hướng chuyển đổi từ truyền thông đại chúng sang truyền thông đơn thuần (x. Eilers 2002, tr. 79). Càng ngày, các phương tiện truyền thông đại chúng không còn là phương tiện duy nhất để nuôi dưỡng ‘quần chúng’. Nhờ hệ thống phát sóng bằng kỹ thuật số và cá nhân hoá truyền thông trên Internet, truyền thông hướng trực tiếp hơn tới các nhóm và các cá nhân khán thính giả chuyên biệt (các kênh và chương trình TV chuyên biệt). Hệ thống kỹ thuật số giúp gia tăng rất nhiều chương trình TV và rađiô và nhờ đó tạo ra nhiều chương trình chuyên biệt hơn, ví dụ, tin tức, thông tin, phim, phong cách sống và cả các chương trình tôn giáo. Hiện tượng này đòi có sự nghiên cứu sâu hơn về các nhu cầu và tiềm năng cho việc truyền thông truyền giáo trong khung cảnh mới này của các phương tiện truyền thông. Chúng cống hiến những khả năng mới cho các giai đoạn khác nhau của tiến trình truyền giáo. Chúng ta phải ý thức điều này và có hành động thích hợp.
Trong Tông huấn Mục vụ Ecclesia in Africa (1995, số 124), ĐGH Gioan Phaolô II nhắc nhở chúng ta thêm rằng “các phương tiện đại chúng hiện đại không chỉ là các dụng cụ truyền thông mà cũng là một thế giới phải được Tin Mừng hoá. Về phương diện thông điệp chúng truyền đi, cần phải bảo đảm rằng chúng truyền bá cái tốt, cái thật và cái đẹp.” Ở chỗ này Đức Giáo Hoàng cũng diễn tả sự “quan tâm sâu xa đến nội dung luân lý của rất nhiều chương trình mà các phương tiện truyền thông đang đổ vào Châu Phi. Cách riêng tôi khuyến cáo chống lại những cảnh khiêu dâm và bạo lực đang tràn ngập các nước nghèo này... Mọi người Kitô hữu đều phải lo sao để các phương tiện truyền thông là một kênh truyền tải tinh thần Tin Mừng. Nhưng các Kitô hữu là chuyên gia trong lãnh vực này phải đóng một vai trò đặc biệt. Họ có nhiệm vụ bảo đảm rằng các nguyên tắc Kitô giáo phải ảnh hưởng tới việc hành nghề của họ, kể cả trong khâu kỹ thuật và quản lý”.
Sách báo
Vẫn còn phần nào liên hệ với các phương thức truyền thông cá nhân và truyền thống nhưng cũng đã dùng tới các vật liệu là các Trung tâm Thông tin và Tìm hiểu hiện có tại một số nước như Ấn Độ. Tại đây, người ta có thể tìm hiểu về Kinh Thánh, đức tin và đời sống Kitô giáo và thậm chí cũng có thể tham dự các khoá học chuyên môn với sự hỗ trợ của các ấn phẩm. Các trung tâm này thường quảng cáo trên các nhật báo và cả ở những nơi công cộng khác. Chúng sử dụng các áp phích, tờ rơi và các vật liệu thông tin khác để làm cho đức tin Kitô giáo được biết đến và hiểu rõ hơn.
Sách có một tầm quan trọng đặc biệt cho việc truyền thông truyền giáo. Chúng cần trong việc huấn giáo để dẫn nhập và đào sâu đức tin cũng như trong việc giảng dạy các đề tài khác có liên quan. Chúng đôi khi cũng có thể là dụng cụ trực tiếp để rao giảng Tin Mừng như được chứng tỏ qua qua câu truyện cuộc đời của Thánh Edith Stein, Têrêsa Cruce: Lớn lên trong một gia đình Do Thái, trong khi bà đến thăm một người bạn là một triết gia và ở lại qua đêm tại đó, bà đọc một cuốn sách tiểu sử Thánh Têrêsa Avila và được thúc đẩy gia nhập Hội Thánh và xin rửa tội. Ngay từ khi mới thành lập Thánh Bộ Truyền bá Đức tin ở Rôma (1622), Hồng y Ingoli đã từng tuyên bố rằng sách có thể đến được những nơi mà các vị truyền giáo không đến được.
Các tạp chí chuyên về truyền thông truyền giáo trực tiếp viết cho những người không thuộc về Hội Thánh còn khá hiếm. Tuy nhiên tại một số nước Châu Âu cũng có những cố gắng theo hướng này cho việc “Tân Tin Mừng hoá”. Chẳng hạn, tổng giáo phận Vienna đã triển khai một kế hoạch xuất bản trong đó bao gồm một tờ nguyệt san được phân phát cho mọi gia đình trong tổng giáo phận bất luận họ thuộc tôn giáo nào.
Một cơ hội khác cho việc truyền thông truyền giáo gián tiếp có thể là các tạp chí viết về các quan tâm chung chung. Chúng có thể gồm các câu truyện mang tính chất Kitô giáo, hay trong tinh thần tiền-rao giảng Tin Mừng, kể lại các sự kiện và nhân vật biểu thị các giá trị, đời sống và niềm tin Kitô giáo.
Một phần công việc truyền thông truyền giáo qua sách báo bao gồm các tạp chí về việc rao giảng Tin Mừng và sinh động hoá truyền giáo trong Hội Thánh để nâng đỡ việc rao giảng Tin Mừng cũng như các hoạt động truyền giáo. Có một số tạp chí xuất bản bởi các Tu hội Truyền giáo hay các Hội Giáo hoàng Truyền giáo. Vì hỗ trợ các sáng kiến truyền giáo, nên các tạp chí này giúp ích cho các nhà truyền giáo nhưng không trực tiếp viết cho những người phải được tiếp cận qua việc truyền thông truyền giáo. Các tạp chí này chủ yếu chỉ giúp các tín hữu trong nghĩa vụ truyền giáo của họ, sinh động họ để hỗ trợ việc truyền thông truyền giáo qua sự trợ giúp cá nhân, thiêng liêng và tài chính.
Phát sóng: Radiô và TV
ĐGH Gioan XXIII trong Thông điệp Princeps Pastorum (1959) về Truyền giáo đã mở rộng các lời khuyến khích của các Giáo hoàng tiền nhiệm về việc sử dụng báo chí trong truyền thông truyền giáo bằng cách thêm vào cả việc sử dụng các phương tiện truyền thông điện tử: “Phải sử dụng tới mức đầy đủ nhất các phát minh khoa học mới nhất cho việc truyền thông và phát sóng về chân lý”.
Việc phát sóng trên radiô và TV có thể được dùng để giảng và trình bày Tin Mừng như được làm bởi nhiều nhóm và nhà giảng thuyết thuộc phái Tin lành cực đoan. Tuy nhiên đây không luôn luôn là phương pháp tốt nhất và cũng còn lệ thuộc nhiều vào điều kiện pháp lý tại mỗi nước. Ở đâu được phép có những đài phát sóng tư nhân, các đài này có thể đi vào loại truyền thông này, nhưng việc chọn một phương thức đối đầu như thế - kêu gọi ‘sấm sét’ giáng xuống trên những người không (chưa) được rửa tội hay thuộc một tôn giáo khác - thường là không thích hợp và không khôn ngoan. Phương thức được Vatican II chọn trong Sắc lệnh Nostra Aetate có lẽ là phương thức tốt hơn, vì nó kính trọng những gì là tốt lành trong các tôn giáo khác và coi các tôn giáo ấy như là những bước đầu trên con đường tìm kiếm Đức Giêsu Kitô. Trong tinh thần đối thoại liên tôn này, có lẽ tốt hơn là nhìn các phương tiện phát sóng như một khả năng để trước hết phát triển một sự hiểu biết nhau hơn và nhờ đó giúp nhau hướng tới một đời sống có ý nghĩa hơn.
Cách làm này được phản ánh trong nhiều chương trình phát sóng của Radio Veritas Asia (‘Đài Chân Lý Á Châu’), một đài phát thanh châu lục của Hội thánh Công giáo phát sóng từ Quezon City, ngoại ô Manila. Đài phát thanh này phát bằng 17 thứ tiếng khác nhau của Châu Á và trong nhiều trường hợp 90% lượng thính giả là những người Hồi giáo, Hinđu hay các tôn giáo khác. Khi tham dự các cuộc gặp gỡ dành riêng cho các thính giả của năm ngôn ngữ (Tamil, Tegulu, Hinđi, Bengali, Urđu) thuộc tiểu lục địa Ấn Độ, nhiều thính giả lặp lại cùng một lý do khiến họ thích nghe đài này: Các chương trình của đài giúp họ tạo được ý nghĩa cho cuộc đời họ và xử lý các vấn đề hằng ngày của họ một cách có trách nhiệm hơn và tốt hơn. Họ không tìm được sự trợ giúp nào giống như thế ở các đài phát thanh khác ngoại trừ Đài Radio Veritas Asia. Họ luôn luôn xin có thêm nhiều giờ phát sóng hơn và điều kiện truyền sóng tốt hơn. Khi được sự giúp đỡ của các chương trình này, họ cũng phát triển một thái độ tích cực hơn với Kitô giáo mà không bỏ tôn giáo riêng của họ. Tuy nhiên thỉnh thoảng cũng có một ít cá nhân và nhóm tìm được đường vào cộng đoàn Kitô giáo.
Phát sóng trên truyền thanh và truyền hình có lợi thế đặc biệt là thường hiệu quả hơn trong tiến trình tiền-rao giảng Tin Mừng. Thực ra chúng không phải là rao giảng trực tiếp mà là giúp người ta hiểu và quý chuộng cuộc đời họ trong ánh sáng các giá trị nhân bản và Kitô giáo. Nhờ vậy người ta trở nên mở lòng ra với Kitô giáo hơn và đi theo Đức Kitô bằng con đường riêng của họ.
Ngoài các đài phát thanh riêng của mình cho việc truyền thông truyền giáo như Đài Radio Veritas Asia, Hội Thánh cũng có thể cống hiến các chương trình riêng lẻ cho các đài phát thanh và truyền hình đã có sẵn. Trong trường hợp này, hiệu quả nhiều hay ít lệ thuộc rất nhiều vào chất lượng chuyên nghiệp của các chương trình và cả ‘môi trường’ chương trình của mỗi đài phát. Nếu các chương trình ấy được đặt xen kẽ các mục biểu diễn rất nhẹ, chúng sẽ khó có thể thực sự truyền tải được thông điệp. Cũng còn vấn đề tài chánh nữa, bởi vì các đài thương mại thường đòi một khoản tiền nào đó cho thời lượng phát sóng của họ, và đôi khi số tiền phải trả này rất cao nếu chương trình được phát vào giờ cao điểm.
Truyền bá các giá trị Kitô giáo cả bằng các chương trình thế tục cũng là một hình thức gián tiếp khác nữa của việc truyền thông truyền giáo. Ví dụ, nếu những người chủ trương một chương trình rađiô hay TV biểu thị các giá trị Kitô giáo trong các hành động của họ, thì một cách nào đó họ cũng được coi là những người truyền giáo bằng việc chia sẻ các giá trị của Đức Kitô cho người khác.
Sau đây là một ví dụ về việc phát sóng truyền giáo được UCANews (Bangkok / Hongkong) thuật lại liên quan tới chương trình bằng tiếng Hinđi của đài Radio Veritas Asia từ ngày 9-12-2002:
RADIO VERITAS ĐỔI MỚI VÀ TRUYỀN CẢM HỨNG
CHO HÀNG TRIỆU NGƯỜI TẠI ẤN ĐỘ
Bài của Prakash Chand Dubey
PATNA, Ấn Độ (UCAN) ― Anh Sudhir Mishra, một người Hinđu tại một làng hẻo lánh ở Ấn Độ, nói rằng sở dĩ anh vẫn còn sống là nhờ một đài phát thanh Công giáo tại Philippines. Người cha 27 tuổi này có ba đứa con và sinh sống tại làng Barwa của bang Bihar. Anh thú nhận anh đã định tự tử vì không chịu đựng nổi những giày vò của những người trong gia đình vì anh bị thất nghiệp, cho tới một lần tình cờ nghe đài phát thanh anh đã thay đổi cuộc đời mình.
Chuyện xảy ra hồi tháng giêng vừa qua. Anh nghe một bài giảng trên đài bằng tiếng Hinđi nói về dụ ngôn Đứa Con Hoang Đàng của Tin Mừng Thánh Luca. Misha sau đó viết về sự thay đổi này trong tâm hồn mình và gửi đến đài phát thanh do Liên Đoàn Giám Mục Châu Á điều hành và đặt cơ sở ngay ở ngoại ô Manila.
Theo Linh mục Dòng Tên Arun Ignatius Abraham, trợ lý điều hành chương trình Radio Veritas bằng tiếng Hinđi, các lá thư như của Mishra cho thấy hàng ngàn người ở Bắc Ấn Độ tìm thấy ý nghĩa mới trong cuộc sống nhờ chương trình này.
Radio Veritas nhận được trung bình 6 ngàn lá thư mỗi năm từ các thính giả Hinđi, theo lời Cha Abraham, giám đốc một trung tâm truyền thông vùng ở thủ phủ Bihar của Patna, cách New Delhi 1.015 kilômét về phía đông. Ngài cho UCA News biết các lá thư ấy cho thấy “số lượng thính giả chúng tôi đạt tới là khổng lồ vì tình trạng biết chữ rất thấp trong số thính giả chúng tôi nhắm tới,” và ngài ước tính rằng chương trình của ban phát thanh tiếng Hinđi đến được với hàng triệu người ở Bắc Ấn Độ.
TGM Telesphore Toppo của giáo phận Ranchi ca ngợi đài phát thanh này như là ‘nhà truyền giáo trên đất Hinđi”, vì đài này đang làm điều mà giới giáo sĩ không làm được trên đất bởi vì quá thiếu người. TGM nói nhiều triệu người nghe đài trong vùng này là thổ dân và những người dalit (những dân không thể nào tiếp cận được).
Trong số những thính giả hâm mộ đài tại địa phương này có ông Tirtharaj Kushwaha, 54 tuổi, ở làng Rampurwa, cách Patna 300 kilômét về phía bắc. Người dân làng Hinđu này cho UCA News biết hồi tháng 11 rằng ông đã “hầu như nghiện” đài Satya Swar (‘Tiếng Nói Chân Lý’) phát lúc 7 giờ tối bằng tiếng Hinđi từ ba năm nay. Ông nói ông tình cờ bắt được đài này trong lúc mở nghe tin tức của đài BBC.
“Đương nhiên có các đài khác cho bạn các tin tức chính trị và các sự kiện xã hội khác, nhưng Satya Swar nói cho bạn những điều rất cơ bản của đời sống”, Kushwaha giải thích. Ông cũng nói ông không thấy có gì mang tính chất phe phái trong chương trình này, mặc dù nó đặt nền trên các giáo huấn Kitô giáo và Kinh Thánh. Radiô Công giáo “hoàn toàn không’ phương hại gì đến đức tin Hinđu của ông, ông khẳng định như vậy, mà chỉ giúp ông quan tâm nhiều hơn tới lợi ích của dân làng của ông.
Các tình cảm như thế của thính giả đã thúc đẩy Cha Carlos Lariosa Dòng Thừa sai Lời Chúa và là Tổng Giám đốc của Radio Veritas, gọi chương trình phát thanh bằng tiếng Hindi là “tiếng nói của Hội thánh Công giáo” tại Bắc Ấn Độ. Vị linh mục có trụ sở đặt tại Philíppin này đã nói chuyện với UCA News hồi tháng mười đang khi ngài đến Patna thuyết trình cho các giám mục của vùng nói tiếng Hinđi.
Cha Deepak Sulaya, một đồng nghiệp đặc trách điều phối chương trình, cho nhận xét rằng tiếng Hinđi là ngôn ngữ có số người nói đông thứ ba trên thế giới, sau tiếng Trung Quốc và tiếng Anh. Cha nói với tờ UCA News rằng chương trình phát sóng 30 phút sáng và tối của Đài Satya Swar trình bày các giá trị của Nước Thiên Chúa “trong môi trường văn hoá và xã hội địa phương”.
Cha nói rằng các chương trình đề cập tới “hàng loạt vấn đề khác nhau nói lên các giá trị của Nước Thiên Chúa” và cống hiến những nhận thức sâu sắc về các giá trị văn hoá, xã hội và gia đình. Trong chương trình có các mảng về “Các Lời dạy của Đức Kitô” và “Cuộc đời các Thánh”.
Theo Cha Abraham, 97% người nghe đài này là người thuộc các tôn giáo khác, đa phần là Hinđu. Họ ở độ tuổi từ 15-40 và làm các nghề khác nhau, gồm cả nghề nông và nghề giáo.
Linh mục Dòng Tên này nói đa số các thư đến từ các câu lạc bộ nghe đài. Có vài trường hợp, cả một làng là một câu lạc bộ và những người có học trong số họ viết thư. Các lá thư chứng tỏ rằng các chương trình đã giúp thay đổi lối sống và các giá trị của họ, khơi nguồn cảm hứng cho họ theo Đức Kitô trong việc phục vụ tha nhân, Cha nói.
Khi Misha gửi thư hồi tháng 6, anh nói anh đang kiếm được tiền nhờ dạy học cho các trẻ em trong làng. “Nhưng trên hết, tôi đã trở thành một con người đáng kính trong làng,” anh cử nhân này nói thêm. Anh nói anh tự hỏi không biết anh có thể ra như thế nào nếu anh đã không nghe câu truyện về Udau Putra (Đứa Con Hoang Đàng).
“Đúng vậy, chương trình này đã cho tôi punarjanama (‘tái sinh’), anh nói.
***
Truyền hình cũng có thể được sử dụng cho việc truyền thông truyền giáo. Kênh chủ yếu Tin Lành “Tele-evangelists” tại Hoa Kỳ có một thời khá thành công trong các chương trình của nó. Với một định hướng nhấn vào sức khoẻ và giàu sang nhờ đức tin Kitô giáo, các chương trình này đã thu hút được khá đông khán thính giả và nhờ đó đã xây dựng được các cộng đồng xung quanh chương trình của họ. Thêm vào đó, họ còn thu nhận được khá nhiều tài trợ nên trong vài trường hợp họ đã có thể mở các cơ sở và trường đại học của họ. Tuy nhiên sau một số vụ tai tiếng và các vấn đề khác nữa, ảnh hưởng ban đầu của họ giảm dần, mặc dù các chương trình của họ đã phổ biến khắp thế giới với một định hướng và phương thức nhắm nhiều hơn tới khán thính giả Mỹ. Với cách làm này, họ đương nhiên không đáp ứng các nhu cầu và kỳ vọng của dân chúng tại các nước Châu Âu, huống hồ các nước không Kitô giáo tại Châu Âu hay Châu Phi. Tại hầu hết các nước Châu Á, ngoại trừ nước Philippines mà phần đa dân số là người Công giáo, thì việc đưa các chương trình thuần tuý Kitô giáo lên màn hình TV quả là rất khó, trừ một vài dịp đặc biệt như các lễ Giáng Sinh và Phục Sinh. Tại các nước ấy, có lẽ phương thức “thuyết phục gián tiếp” có nhiều cơ may thành công hơn nhưng cũng không dễ thực hiện.
Các truyện truyền hình kiểu ‘telenovelas’ có xuất xứ từ Châu Mỹ Latinh nhưng cũng được áp dụng cho các môi trường Châu Á có thể có một hiệu quả truyền thông truyền giáo nếu chúng dọi chiếu các giá trị và nếp sống Kitô giáo. Người ta thường rất dễ bị cám dỗ theo gương các ‘người hùng’ trong truyện và cách sống và ứng xử của những người này.
Vai trò chính của truyền hình trong việc truyền thông truyền giáo thực sự là ở giai đoạn tiền-rao giảng Tin Mừng: chuẩn bị một bầu khí và mảnh đất để đức tin Kitô giáo được dung nạp và có thể được chấp nhận một cách tích cực như một đối tác. Về phương diện này, một tường thuật về các nhân cách lỗi lạc như Mẹ Têrêsa Calcutta hay ĐGH Gioan Phaolô II sẽ có tác dụng rất lớn. Một tường thuật về các chuyến đi của Đức Giáo Hoàng đôi khi tạo được một ảnh hưởng vượt quá một khu vực riêng lẻ, và trở thành biểu tượng cho khát vọng hoà bình và hiệp nhất của thế giới nếu chẳng hạn ngài đi thăm một đền thờ Hồi Giáo hay các lãnh thổ của Paléttin tại Israel.
Tuy nhiên việc thiết kế chương trình TV cho truyền thông truyền giáo đòi hỏi một sự bén nhậy đặc biệt của nhà sản xuất và tất cả những người có liên quan, để họ biết kính trọng phẩm giá và các niềm xác tín của những nhân vật được tường thuật hay được nói tới.
Các câu truyện là những phương tiện truyền thông rất mạnh. Riêng đối với truyền thông truyền giáo cũng vậy. Các câu truyện kể trực tiếp diện đối diện, và cả các câu truyện phát sóng trên đài, rất dễ tạo ảnh hưởng đối với con người. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu cho thấy rằng các vở kịch phát trên radiô thường có ảnh hưởng mạnh hơn các màn trình diễn trên TV. Nhờ chăm chú nghe trên radiô, trí tưởng tượng của người nghe được kích thích và thách thức mạnh hơn các câu truyện trên TV, vì trên TV cái gì cũng được phô bày và cái gì cũng có thể xem thấy. Trong các vỡ kịch trên TV, không có nhiều chỗ được dành cho trí tưởng tượng của người xem hoạt động. Một câu truyện TV thường được chấp nhận và trải nghiệm như một thông tin hơn là một cái gì mà người xem trực trực tiếp tham dự. Ngược lại kịch rađiô buộc người nghe phải tham dự vào bằng trí tưởng tượng của mình. Dầu sao vẫn phải lưu tâm tới sức mạnh đặc biệt của các hình ảnh.
Sự tiếp xúc cá nhân và các câu truyện cuộc đời luôn luôn có giá trị lớn trong truyền thông truyền giáo và thường tác động mạnh hơn bất cứ lý thuyết hay suy tư tốt nhất nào.
Phim
Người ta thích nghe các câu truyện và dễ bị ảnh hưởng bởi chúng. Ngay tứ lúc mới được phát minh năm 1895, phim ảnh đã muốn thoả mãn tính tò mò của con người. Phim diễn lại các câu truyện cuộc đời bằng nhiều cách khác nhau và các câu truyện về những mảnh đời thường khơi dậy nhiều cảm xúc. Dần dà với sự phát triển của nó, phim đã trở thành một mảng nghệ thuật, đặc biệt trong nghệ thuật kể truyện. Chẳng hạn phim có thể kể những câu truyện về các thánh và các người tội lỗi trong số các vĩ nhân trong lịch sử, cũng như những con người bình thường trên đường phố. Các truyện phim trình bày các giá trị và gương đời sống và bằng cách này chúng dễ có một hiệu quả truyền thông truyền giáo. Các giá trị Kitô giáo trong các phim chia sẻ một điều gì đó của Tin Mừng. Trong lịch sử, các phim đã vẽ lên chân dung của các thánh như Thánh Phanxicô Assisi hay Vinhsơn Phaolô, đã trình bày câu truyện Lộ Đức (“Bài ca của Bernadette”) và cuộc đời của các linh mục và tu sĩ như “Nhật ký của một Linh mục Miền Quê” (Bresson).
Cũng có khá nhiều phim kể truyện Chúa Giêsu như phim “Tin Mừng Thánh Mátthêu” (Pasolini) hay vẽ lại chân dung Đức Giêsu dựa trên Kinh Thánh. Ấn Độ cũng sản xuất một phim về cuộc đời Chúa Giêsu được khởi xướng bởi Amruthavani, trung tâm truyền thông của Tổng giáo phận Hyderabad, phim rất được hưởng ứng bởi những người Hindu và Hồi Giáo và được lồng hai thứ ngôn ngữ khác nhau của Ấn Độ. Phim loại này có thể được coi là một ví dụ về truyền thông truyền giáo.
Cũng có những phim mà các vai chính trở thành phần nào “các diện mạo Đức Kitô” phản ánh cách này hay cách khác chính Đức Giêsu Kitô hay một cách đặc biệt các giá trị của Đức Kitô.
Ví dụ, nếu Babette, một người tị nạn từ Paris đến Jutland ở Đan Mạch, trong phim “Bữa Tiệc của Babette”, đã tiêu toàn bộ số tiền chị nhận được từ cuộc chơi lô-tô ở Pháp để chiêu đãi một bữa ăn trong một nhà dòng, thì mặc dù chị không có mặt trong bữa ăn, câu truyện cũng được xem như phản ánh tiệc Thánh Thể và hành vi tự trao ban của chính Chúa Giêsu Kitô. Có nhiều phim khác với các hành động và các diện mạo của Đức Kitô giống như thế, làm cho khán giả cảm thấy sinh động và suy tư về cuộc đời và số phận của mình. Communio et Progressio thậm chí còn nhắc nhở chúng ta rằng “trong số những phim được công nhận là kinh điển, nhiều phim đã bàn chuyên về các đề tài tôn giáo. Sự kiện này không những chứng minh rằng điện ảnh là một kênh truyền tải những đề tài cao đẹp như thế, nó còn là một sự khích lệ mạnh để sản xuất các phim loại này”.
Những lời ĐGH Piô XII đã viết trong Thông điệp Miranda Prorsus từ năm 1957 (số 74) vẫn còn giá trị hôm nay cho việc truyền thông truyền giáo: “Điện ảnh... ngày nay phải được kể trong số những phương tiện quan trọng nhất nhờ đó các ý tưởng và khám phá của thời đại chúng ta được biết đến”.
Khi bình luận về 100 năm Điện ảnh, ĐGH Gioan Phaolô II trong Thông điệp cho Ngày Thế giới Truyền thông 1995 đã nhắc nhở chúng ta: “Với khả năng to lớn của nó, điện ảnh có thể trở thành một phương tiện mạnh mẽ cho việc rao giảng Tin Mừng. Hội Thánh thúc đẩy các nhà sản xuất, các đạo diễn và mọi người có liên quan, những người tự nhận mình là Kitô hữu và hoạt động trong thế giới phức tạp và độc đáo này của điện ảnh, hãy hành động một cách nhất quán với Đức Tin của mình và có những sáng kiến can đảm... để nhờ hoạt động chuyên nghiệp của họ, thông điệp Kitô giáo với nội dung là Tin Mừng cứu độ cho mọi người có thể hiện diện nhiều hơn trên thế giới”.
ĐGH nhìn thấy tiềm năng truyền giáo của Điện Ảnh đặc biệt trong mối tương quan giữa phim ảnh và văn hoá. Trong một cuộc tiếp tân ngày 25-11-1999 dành cho các nhà sản xuất phim, ngài nói: “Tôi cũng tin tưởng rằng các phim quí vị sản xuất sẽ là một trợ cụ hiệu quả trong cuộc đối thoại cần thiết đang diễn ra giữa văn hoá và đức tin trong thời đại chúng ta. Trong thế giới điện ảnh và truyền hình, nơi đồng qui của lịch sử, nghệ thuật và ngôn ngữ biểu cảm, hoạt động của quý vị trong tư cách là các nhà chuyên môn và là tín hữu, đang tỏ ra đặc biệt cần thiết. Tự chính bản chất của nó, văn hoá là truyền thông: truyền thông của các cá nhân với nhau và của con người với môi trường sống của họ. Được đức tin soi sáng, văn hoá có thể phản ánh cuộc đối thoại của cá nhân với Thiên Chúa trong Đức Kitô. Vì vậy đức tin và văn hoá được kêu gọi gặp gỡ nhau và tương tác với nhau ở chính trong lãnh vực truyền thông. Đặc biệt ở thời đại chúng ta được đánh dấu bởi sự phát triển của các phương tiện truyền thông đại chúng, văn hoá bị ảnh hưởng và về nhiều phương diện được hình thành bởi các khả năng mới của các phương tiện truyền thông. Lưu ý đến sự kiện này là điều quan trọng”.
Truyền thông đa phương tiện: Truyền giáo điện tử
Trong Văn kiện Gaudium et Spes về Hội Thánh trong Thế giới Hôm nay, các Nghị phụ Công đồng viết rằng tiến bộ kỹ thuật đã đang “biến đổi bộ mặt trái đất” và đang vươn tới chinh phục không gian (GS số 5). Theo hướng này, thông điệp cho Ngày Thế Giới Hoà Bình năm 1990 của ĐGH Gioan Phaolô II về ‘thông điệp Kitô giáo trong một văn hoá máy tính’ quả quyết rằng các Nghị phụ Công đồng đã “nhìn nhận rằng các phát triển về công nghệ truyền thông... sẽ tạo ra những phản ứng dây chuyền với những hậu quả không thể lường trước được.” Nhưng cũng theo tinh thần này của Gaudium et Spes, “dân Thiên Chúa (phải) sử dụng với óc sáng kiến các khám phá và các kỹ thuật mới vì lợi ích nhân loại và sự hoàn thành ý định của Thiên Chúa đối với thế giới.” Trong lãnh vực này, “Hội Thánh được cống hiến thêm phương tiện hoàn thành sứ mạng của mình”. Ngoài việc gia tăng sự truyền thông đối nội (‘ad intra’), Hội Thánh với sự giứp đỡ của các công nghệ mới cũng có thể “sẵn sàng hơn để loan báo cho thế giới biết các niềm tin của mình và cắt nghĩa các lý do cho lập trường của mình đối với mọi vấn đề và sự kiện liên quan”.
Điều này tạo ra những cơ hội mới cho việc truyền thông truyền giáo của Hội Thánh, dựa trên các nhận xét chung của Vatican II (GS số 58) rằng “Thiên Chúa đã nói với loài người tuỳ theo nền văn hoá riêng của mỗi thời đại. Cũng vậy, Hội Thánh trong dòng lịch sử đã tồn tại giữa các hoàn cảnh khác nhau, đã sử dụng các nguồn lực của các nền văn hoá khác nhau trong việc rao giảng của mình để truyền bá và cắt nghĩa thông điệp của Đức Kitô”. ĐGH Gioan Phaolô II đã hiểu theo tinh thần này khi ngài vạch ra chức năng truyền giáo của Internet trong cuộc gặp gỡ các giám đốc của các Hội Giáo hoàng Truyền giáo của Hoa Kỳ ngày 23-2-2003. Ngài nói: “Sự phát triển của Internet những năm gần đây cống hiến một cơ hội chưa từng có để mở rộng cánh đồng truyền giáo của Hội Thánh, vì nó đã trở thành một nguồn thông tin và truyền thông hàng đầu cho biết bao con người thời đại chúng ta, đặc biệt là giới trẻ”.
Các chương trình trên mạng
Chính trong thông điệp cho Ngày Thế giới Truyền thông năm 2002 về “Internet: Một Diễn Đàn Mới cho việc Rao giảng Tin Mừng”, ĐGH Gioan Phaolô II đã nói chi tiết hơn về việc phải sử dụng Internet thế nào cho việc truyền thông truyền giáo.
Qua Internet, Hội Thánh không chỉ tham gia cuộc đối thoại của xã hội giống như người ta ngồi nói chuyện ở nơi họp chợ (Forum, Aeropagus) của thế giới. Nhờ Internet mà các thông tin và suy tư về đức tin Kitô giáo cũng được truyền đạt. Internet có thể kích thích sự quan tâm “và làm cho cuộc gặp gỡ đầu tiên với thông điệp Kitô giáo có thể thực hiện được”. Điều quan trọng là phải duy trì và phát triển mối quan tâm này, đặc biệt giữa giới trẻ. Tuy nhiên, ta phải ý thức rằng cuối cùng người ta cũng sẽ phải bỏ thế giới ảo để vào thế giới thật của cộng đoàn Kitô giáo.
Một khả năng nữa trong việc sử dụng Internet cho việc truyền giáo là cung cấp sự giúp đỡ tiếp theo sau cuộc gặp gỡ ban đầu. Các chương trình Internet có thể giúp đào sâu đức tin và nhận thức. Chúng có thể được dùng cho việc giảng dạy giáo lý ban đầu và thường xuyên, và cũng được dùng để chia sẻ kinh nghiệm đức tin, trả lời các câu hỏi và cung cấp một bối cảnh tốt hơn cho các cuộc gặp gỡ ban đầu và các kinh nghiệm đức tin.
Nhưng việc sử dụng Internet trong truyền thông truyền giáo cũng có một số hạn chế. Trong một nền văn hoá sống dựa trên cái phù du, người ta dễ rơi vào nguy cơ tin rằng cái quan trọng là các sự kiện chứ không phải các giá trị. Internet cung cấp những sự hiểu biết hết sức rộng rãi, nhưng không dạy các giá trị; và khi các giá trị bị coi thường, thì chính nhân tính của chúng ta cũng bị hạ thấp và người ta dễ đánh mất phẩm giá siêu việt của mình. Bất chấp những tiềm năng to lớn của nó cho sự thiện, ai ai cũng đã thấy rõ ràng một số cách thức đê hèn và bần tiện mà việc sử dụng Internet gây ra...”.
Các chương trình được thiết kế đặc biệt cho truyền thông truyền giáo trên Internet có thể là hình thức cung cấp thông tin đơn giản qua các website (vd., www.vatican.va), nhưng cũng có cả các dịch vụ tư vấn, các thắc mắc và trả lời; chúng có thể là các ‘phòng-chat’ hay các hình thức đối thoại khác để trao đổi kinh nghiệm và ý kiến. Có thể có các chương trình huấn luyện và đào tạo qua Net cho các cuộc tiếp xúc đầu tiên và cả cho việc đào sâu hiểu biết và xác tín. Các chương trình Iternet có thể sinh động hoá và khuyến khích thêm nhiều cuộc tiếp xúc và kinh nghiệm đức tin sâu hơn. “Nhờ Internet người ta có thể gia tăng các mối tiếp xúc bằng các cách xưa nay chưa từng được nghĩ tới, sự kiện này mở ra những tiềm năng tuyệt vời cho việc loan báo Tin Mừng. Nhưng cũng đúng là các mối quan hệ được thiết lập bằng các phương tiện điện tử không bao giờ có thể thay thế cho sự tiếp xúc cá nhân trực tiếp mà việc loan báo Tin Mừng đích thực đòi hỏi. Vì rao giảng Tin Mừng luôn luôn lệ thuộc vào chứng tá bản thân của người được sai đi rao giảng (x. Rm 10,14-15). Làm thế nào để từ những mối tiếp xúc được cung cấp bởi Internet, Hội Thánh dẫn đến sự truyền thông sâu hơn do việc loan báo của Kitô giáo đòi hỏi? Chúng ta xây dựng thế nào từ sự tiếp xúc và trao đổi thông tin đầu tiên mà Internet cung cấp?” (Thông điệp cho Ngày Thế giới Truyền thông 2002).
Các thừa sai mạng
Một số người không chỉ chế ra từ “Tin Lành điện tử” (e-vangelism) theo mẫu các thuật ngữ tương tự như “thương mại điện tử” (e-commerce) và “ngân hàng điện tử” (e-banking). Tin Lành điện tử là một cố gắng hệ thống nhằm sử dụng Internet và không gian mạng (cyberspace) cho việc truyền thông truyền giáo. Tin Lành điện tử sử dụng các chức năng khác nhau của Net để rao giảng và chia sẻ Tin Mừng của Đức Kitô. Những người muốn hiến đời mình cho một hoạt động như thế được gọi là các “thừa sai mạng” (cyber missionaries). Họ đi lại trên không gian ảo như ở nhà mình và chia sẻ Tin Mừng với bất cứ ai họ gặp. Để sử dụng phương pháp này, rõ ràng họ phải là các chuyên gia tin học, đặc biệt về ngành lập trình, và có khả năng xử lý Mạng thành thạo. Nhưng họ cũng phải là những người đầy đức tin và có kinh nghiệm bản thân về Đức Kitô để họ có thể chia sẻ. Đồng thời họ phải là những người hiểu biết mọi nhu cầu và khát vọng của con người. Họ cũng cần ý thức rằng cuối cùng đức tin được sống trong thực tế chứ không phải trong không gian ảo. Bằng cách này, vai trò của các ‘thừa sai mạng’ thường chỉ giới hạn ở giai đoạn gặp gỡ đầu tiên. Họ chỉ mở ra cánh cửa của thực tại ảo để chỉ con đường tới đời sống thực, chạm đến mọi kinh nghiệm của con người. Các ‘thừa sai mạng’ là những chuyên gia ở giai đoạn Tiền-Rao giảng Tin Mừng và họ quảng đại nhường nhiệm vụ đào sâu bên kia không gian ảo cho những người trong các cộng đoàn đức tin sống thực, ở đó sự truyền thông người-với-người chuẩn bị giai đoạn chót cho một cuộc dấn thân sâu xa hơn với Đức Kitô.
“Internet làm cho hàng tỉ hình ảnh xuất hiện trên hàng triệu màn hình máy tính trên khắp hành tinh này. Từ ngân hà hình ảnh và âm thanh này, liệu khuôn mặt Đức Kitô có hiện lên không và tiếng nói của Người có được nghe thấy hay không? Vì chỉ khi khuôn mặt Người được nhìn thấy và tiếng nói Người được nghe thấy, thế giới mới biết được tin vui về sự cứu chuộc của chúng ta. Đây là mục đích của rao giảng Tin Mừng. và đây là điều sẽ làm cho Internet trở thành một không gian con người đích thực, vì nếu không có chỗ cho Đức Kitô, thì cũng không có chỗ cho con người” (Ngày Thế giới Truyền thông 2002).
8. Lập kế hoạch và đào tạo cho truyền thông truyền giáo
Việc lập kế hoạch cho truyền thông truyền giáo sử dụng cùng những nguyên tắc cơ bản giống như việc lập kế hoạch cho các lĩnh vực truyền thông khác. Tuy nhiên nó phải đặc biệt bao gồm một sự suy xét về những con người phải đạt tới. Đôi khi nó có thể có nghĩa là dựa ít hơn vào cơ cấu nhưng xây dựng trên sự linh động, sáng tạo và cởi mở với Chúa Thánh Thần. Nhưng dù vậy, truyền thông truyền giáo không thể thực hiện mà không có một kế hoạch và cơ cấu căn bản. Giống như mọi công trình tương tự, nó cần có kế hoạch thích hợp về nhân sự, hoạt động và tài chánh để có thể tồn tại chứ không chỉ là một công việc ‘đầu voi đuôi chuột’.
Việc truyền thông truyền giáo hiệu quả cũng cần có sự đào tạo. Ngoài đào tạo và huấn luyện tổng quát về truyền thông cho các loại phương tiện khác nhau, còn cần có tài năng, các đường hướng và thái độ thích hợp.
Vì truyền thông truyền giáo rất thường xuyên đối xử với những người của các nền văn hoá và các bối cảnh văn hoá khác nhau, nên nó cần những hiểu biết căn bản và có thể cả những năng khiếu về truyền thông liên văn hoá. Các hiểu biết căn bản gồm một sự ý thức về những khác biệt trong các nền văn hoá cũng như sự nhậy cảm và sự đáp ứng cả đối với những thái độ và cách ứng xử khác với văn hoá của chính người truyền thông. Truyền thông truyền giáo cần có khả năng phần nào bỏ qua một bên nền văn hoá riêng của mình để đi tới văn hoá của người khác với những cách nhìn, kinh nghiệm và lối sống khác với của mình. Một con người có sự nhậy cảm liên văn hoá phải có thể sống một cách thoải mái trong hai hay nhiều nền văn hoá khác nhau mà không đánh mất căn tính riêng của mình.
Nhiều doanh nghiệp quốc tế có các phương thức đào tạo đặc biệt để dạy nhân viên của họ cách ứng xử trong các nền văn hoá khác để thành công hơn trong công việc buôn bán. Có vẻ như trong các cộng đoàn Kitô giáo chưa có cách thực hành này, mặc dù không phải như thế trong các cộng đoàn chuyên lo việc truyền giáo ad gentes. Các sách giáo khoa chuyên về đào tạo và các nghiên cứu thực địa sâu rộng cũng như các tạp chí nghiên cứu về truyền thông liên văn hoá hiện có nhiều nhưng có vẻ như rất ít người Kitô giáo để ý đến điều này. Để làm bất cứ việc truyền thông nào, cần có ít là một khoá học cơ bản.
Một sự học hỏi và kinh nghiệm về đối thoại liên tôn hay lĩnh vực tôn giáo so sánh cũng rất ích lợi. Khi đối xử với những người thuộc các tôn giáo khác, có ít là một chút hiểu biết cơ bản về họ tưởng cũng là hợp lý.
Từ sau Công đồng Vatican II, người ta ngày càng gia tăng sự xác tín về nhu cầu đối thoại liên tôn và đối thoại với văn hoá, là một phần của tiến trình truyền thông truyền giáo. “Đối thoại liên tôn là một phần của sứ mạng truyền giáo của Hội Thánh. Hiểu như là một phương pháp và dụng cụ để hiểu biết lẫn nhau và làm giàu lẫn cho nhau, đối thoại không đi ngược với sứ mạng ad gentes, thực ra nó có liên hệ đặc biệt với sứ mạng này và là một trong các cách diễn tả của sứ mạng này...” (Redemptoris Missio, số 55).
Cũng theo triền tư tưởng này, sẽ hết sức ích lợi nếu người truyền thông truyền giáo thông thạo các lĩnh vực khác nhau của truyền giáo học. Truyền giáo học như một môn thần học của Hội Thánh trong sứ mạng ad gentes không chỉ bao gồm các môn học như lịch sử truyền giáo, phương pháp truyền giáo và nền tảng Kinh Thánh của truyền giáo. Nó cũng bao gồm học thuyết thần học làm cơ sở của việc truyền thông truyền giáo. Khi học về các phương pháp truyền giáo, cũng phải học về vai trò của truyền thông xã hội. Trong quá khứ, rất thường xuyên truyền thông được coi chỉ đơn giản như là biết cách sử dụng các phương tiện đại chúng vì các mục đích truyền giáo chẳng hạn. Nhưng theo cách hiểu ngày nay, truyền giáo tự nó là một sự kiện truyền thông và phải được coi và học giống như mọi lĩnh vực thần học khác dưới góc cạnh truyền thông này như một nguyên tắc thần học. Thông điệp của ĐGH Gioan Phaolô II cho Ngày Thế giới Truyền thông 1990 về “Thông điệp Kitô giáo trong một nền Văn hoá Máy tính” vạch ra cùng một hướng ấy khi nói:
“Ngày nay không ai còn nghĩ hay nói về truyền thông xã hội như chỉ là các dụng cụ hay kỹ thuật. Ngược lại truyền thông xã hội bây giờ được nhìn như một phần của một nền văn hoá còn chưa mở ra hết và các hệ luỵ của nó còn chưa được hiểu hoàn toàn, cũng như các tiềm năng của nó tạm thời mới chỉ được khai thác một phần”. Cùng năm ấy, Thông điệp Redemptoris Missio (số 37c) nói về truyền thông xã hội như là nơi họp chợ (‘areopagus’) hàng đầu của thời đại chúng ta với một ‘văn hoá mới’ phát sinh từ “chính sự kiện là có những cách thức truyền thông mới, với những ngôn ngữ mới, những kỹ thuật mới và một tâm lý mới”.
Trong các suy tư Kinh Thánh của ngài về truyền thông xã hội, Hồng y Carlo Martini đặt một nền móng nữa cho một đường lối truyền thông truyền giáo như thế, nó phải là thành phẩn của mọi việc đào tạo.
Truyền thông truyền giáo phải được coi như một cố gắng liên ngành được xây dựng dựa trên các môn thần học, xã hội học cũng như nhân chủng học. Tương tự, điều này cũng đúng với truyền thông mục vụ. Hoạt động mục vụ và truyền giáo của Hội Thánh phải nghiêm túc lấy chiều kích truyền thông làm một cơ sở thần học với những hệ quả xa rộng và thực tiễn.
HẾT