Print  
Thầy dạy khát khao (I - 8)
Bản tin ngày: 06/05/2011   Website: Truyền bá Tin Tức Công Giáo

THẦY DẠY KHÁT KHAO

ĐỌC TIN MỪNG THEO THÁNH GIOAN

Nguyên tác: Le Maître du désir

Une lecture de l’évangile de Jean

Tác giả: Éloi Leclerc

Chuyển ngữ: Lm. Minh Anh (TGP. Huế)

***

Phần I: NHỮNG CUỘC GẶP GỠ

Chương 8: Sự Phục Sinh và Sự Sống

(Ga 11,1-14)

Ý thức được Chúa Cha sai đến thế gian, mang cho thế gian sự sống, sự sống thực, sự sống không qua đi, Đức Giêsu không thể hoàn tất sứ mệnh mà không đương đầu với cái chết. Quả vậy, Ngài không đến trong một thế giới thần tiên, nhưng cách hiển nhiên, Ngài đến trên mặt đất của chúng ta, nơi sự chết là một thực tại thống trị mọi ngày.

Trong hành trình đời mình, Đức Giêsu đối diện với sự chết không phải cách lý thuyết, phỏng chừng hay như một ngẫu nhiên xảy đến tình cờ cho người này người khác. Cái chết đến với Ngài cách hiện sinh và hoàn toàn cá nhân. Thuộc về thể xác và cảm giác như mỗi người chúng ta, Ngài run rẩy và đau khổ trước cái chết của mình, một cái chết được báo trước sẽ rất tàn bạo.

Nhưng trước đó, Ngài cũng đã cảm nhận cái chết qua những cảm xúc tha thiết nhất của mình như Tin Mừng Gioan cho thấy. Ngài yêu mến Lazarô, Ngài quý mến hai người chị Matta và Maria của anh; ở nhà họ, Ngài được tiếp đón như một người bạn. Với Ngài, cả ba người này là những người thân thiết nhất. Trên con đường sứ vụ, căn nhà của Lazarô ở Bêtania là nơi dừng chân thanh bình. Giữa một đám đông hay quấy rầy và những nơi hoang vắng mà Ngài thường ở lại một mình để cầu nguyện, có một số nơi ưu tiên cho việc nghỉ ngơi và thân tình trong cuộc đời của Đức Giêsu. Bêtania là một trong những nơi ấy. Ở đó, cách xa đám đông, cách xa những cuộc luận chiến với các luật sĩ và biệt phái, Đức Giêsu nghỉ ngơi và cảm nếm một niềm vui hoàn toàn bình dị khi cùng ở một nơi giữa những người bạn. Đó là những giây phút hiếm hoi của niềm hạnh phúc con người trong một cuộc sống hoàn toàn hiến dâng cho sứ vụ của Ngài.

Như thế, chính Đức Giêsu cũng cảm nhận cái chết bất ngờ của Lazarô và nỗi đau mà hai người chị của ông trải qua. Với Ngài, đó là một nỗi đau thực sự. Ngài cho thấy điều đó. Trước Matta và Maria, cảm xúc của Ngài thể hiện ở chỗ cảm thấy bất an và không thể cầm nước mắt, “hãy xem người thương anh ấy biết bao!”, những người vây quanh Matta và Maria đã thốt lên. Không đoạn Tin Mừng nào của Gioan minh hoạ tốt hơn câu nói của lời tựa “và Ngôi Lời đã trở nên người phàm” như ở đây. Nhân tính của Đức Giêsu không phải là một nhân tính bề ngoài nhưng là một nhân tính đầy chiều sâu của cảm giác và cảm xúc, từ đó làm nên một con người cởi mở nhất.

Vậy mà dù cho cả khi con người ấy run rẩy, không một khoảnh khắc nào Đức Giêsu quên đi sứ vụ của mình. Ngài biết, Ngài mang trong mình bí mật của một sự sống vốn không qua đi và sự chết không thể chiếm lấy nó. Sứ vụ của Ngài là mặc khải và thông ban sự sống thần linh cho thế gian này. Tuy nhiên, chúng ta chỉ có thể hiểu rõ điều Đức Giêsu cảm nhận trước cái chết của bạn mình bằng cách đặt sự kiện đó trong cái nhìn của Gioan, cái nhìn đó chính là sứ vụ của Ngài.

Quả thế, trình thuật Đức Giêsu đến Bêtania trong hoàn cảnh này được viết trong bối cảnh Thầy trò lên Giêrusalem, một chuyến đi dẫn đến cái chết. Quyết định trở lại Giuđê, Đức Giêsu tiên báo Ngài sẽ phải chết; và chấp nhận cái chết. Như thế, Ngài sẽ hoàn tất sứ vụ bằng cách hiến mạng sống mình. Việc Lazarô sống lại sẽ được thực hiện trong tương quan mật thiết với quyết định tự hiến của Ngài. Hai sự kiện này không tách rời nhau. Sự kiện thứ nhất sáng tỏ nhờ ánh sáng của sự kiện thứ hai. Vì thế, cần phải hiểu trình thuật của Gioan ngay từ những khởi đầu của nó.

Đức Giêsu rút về bên kia sông Giođan với các môn đệ khi hai chị của Lazarô gửi người đến báo tin cho Ngài: “Thưa Thầy, người mà Thầy thương mến đang ốm nặng”. Tin này dường như không làm Ngài xúc động ngay lúc ấy. Ngài chỉ bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh”. Ngài còn nán lại đó hai ngày. Điều đáng chú ý trong phản ứng của Đức Giêsu ở chỗ là suy nghĩ của Ngài hướng ngay về Chúa Cha và về sứ mệnh được giao phó. Chân trời của Ngài là vinh quang của Thiên Chúa được biểu lộ trong việc hoàn tất sứ mệnh trao ban sự sống. Căn bệnh của Lazarô được Ngài nhìn trong nhãn quan này: như một tiên báo cho việc biểu lộ vinh quang.

Sau hai ngày, Đức Giêsu nói với các môn đệ: “Chúng ta hãy trở lại xứ Giuđê”. Ngay lập tức họ phản ứng: “Gần đây, những người Do Thái tìm cách ném đá Thầy mà Thầy còn muốn trở lại đó sao!”. Đức Giêsu trả lời họ:

“Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao?

Ai đi ban ngày thì không vấp ngã,

vì thấy ánh sáng của thế gian này.

Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã

vì không có ánh sáng nơi mình” (Ga 11,9-10).

Những lời nói khá nhiệm mầu. Chúng còn nhắm đến những lời khác nữa:

“Ai bước đi trong bóng tối

thì không biết mình đi đâu.

Bao lâu các ông còn có ánh sáng,

hãy tin vào ánh sáng, để trở nên

con cái ánh sáng” (Ga 12,35b-36).

Về phần Đức Giêsu, những lời này là một lời mời gọi theo Ngài mà không sợ hãi cũng không do dự, vì Ngài là ánh sáng: “Ai theo tôi sẽ không đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng mang lại sự sống” (Ga 8,12b).

Đáp lại các môn đệ, Đức Giêsu bảo: “Lazarô, bạn của chúng ta, đã yên giấc; Thầy sẽ đi đánh thức anh ấy”. Hiểu theo đúng nghĩa những lời nói của Ngài, họ thưa: “Thưa Thầy, nếu anh ta đã yên giấc, anh ấy sẽ khoẻ lại”. Nhưng Đức Giêsu đã nhanh chóng xua tan mọi sự khó hiểu và công bố rõ ràng với họ: “Lazarô đã chết, và Thầy vui mừng vì Thầy đã không ở đó, để anh em tin. Thôi, nào chúng ta hãy đến với anh ấy!”.

Từ những lời nói của Đức Giêsu, các môn đệ chỉ lưu ý đến quyết định trở lại Giuđê của Ngài, một sự trở lại đầy liều lĩnh của Thầy lẫn trò. Từ đó nảy sinh ý tưởng hoàn toàn tự phát của Tôma: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy”. Một tuyên bố hay. Hẳn là một cách thức tự hiến đầy can đảm. Nhưng thực tế sẽ khác.

Vậy là Đức Giêsu rời nơi ở của Ngài bên kia sông Giođan và lên Giêrusalem. Ngài tiến đến cái chết của mình, một cái chết Ngài đã dự tính và chấp nhận như một quà tặng tuyệt hảo; mạng sống Ngài, được hiến trao. Cái chết này sẽ hoàn tất và biểu lộ ý định của Thiên Chúa. Khi trao ban mạng sống, Đức Giêsu sẽ thông truyền cho thế gian sự sống thần linh. Chính trong viễn ảnh nội tại này, Ngài lên đường và đến Bêtania, gần Giêrusalem.

Lazarô đã ở trong mồ từ bốn ngày. Nhiều người Do Thái đến an ủi Matta, Maria và ở lại đó với hai bà. Khi Matta biết Đức Giêsu đến, bà đến gặp Ngài, đang khi Maria, phục tang, ủ rũ ngồi trong nhà.

Thấy Đức Giêsu, không thể kìm nén, Matta thưa với Ngài: “Thưa Thầy, nếu Thầy ở đây, em con đã không chết”. Bà trách Thầy đến muộn. Tuy nhiên, ngay lập tức bà nói thêm: “Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Đức Giêsu bảo chị: “Em con sẽ sống lại”. “Con biết, Matta đáp, em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Như thế, Matta bày tỏ niềm tin của Đạo Do Thái chính thống vào thời kỳ này. Nhưng lời tuyên bố trên môi miệng bà lại hàm chứa một chút đắng cay. Có nên đợi đến “ngày sau hết” để gặp lại em mình không?

Đức Giêsu nhìn Matta. Ngài nhìn bà bằng một cái nhìn không dừng lại ở bề mặt của những hữu thể, nhưng là một cái nhìn sâu thẳm từ bên trong. Ngài thấy nỗi đau của bà, sự cự tuyệt dữ dội của bà trước cảnh chia ly, nỗi khát khao của bà về một cuộc sống được giải thoát khỏi sự chết và những đoạn giao của nó. Ngoài nỗi đau của Matta, Đức Giêsu còn thấy toàn thể thân phận con người, một đại dương nhân loại mênh mông đang lồng lộn bởi một khát vọng sống tựa hồ con sóng trong lòng đại dương; con sóng này sẽ vỡ oà trên một bức tường không thể vượt qua: sự chết, quyền thống trị của nó.

Đối diện với cơn bão khát vọng sống mà Tạo Hoá trót gieo xuống mặt đất, sự chết, quyền lực thống trị xem thường định mệnh cuộc sống. Chính sự chết luôn chiếm thế thượng phong: nó luôn đưa ra phán quyết cuối cùng. Nó kìm hãm con người trong quyền lực của nó, giam giữ con người trong chân trời tàn nhẫn của nó. Con người có thể kéo dài chuỗi ngày đời mình nhưng sự chết lại chụp lấy nó cách nghiệt ngã, bất chấp mọi nhiệt huyết sống. Ngày kia, cuộc phiêu lưu của con người tự nó sẽ kết thúc trên trần gian; cuộc phiêu lưu đó thậm chí không ai còn nhớ đến như một kỷ niệm. Cả trái đất bấy giờ chỉ còn là một cõi chết.

Trước cảnh cùng khốn này, Đức Giêsu không có ý nói như sách Giảng Viên: “Phù vân trên mọi phù vân, mọi sự chỉ là phù vân… và cuốn theo chiều gió”, hoặc “Đeo bám vào sự sống này để làm gì?”. Không, hoàn toàn ngược lại, cả con người nội tại cựa mình run rẩy trước viễn cảnh này: con người được tạo dựng để sống, được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa và cũng trở thành một hữu thể để chết, làm mồi ngon cho sự chết! Ý định của Tạo Hoá về định mệnh của sự sống phải biến đổi trước sự thống trị của sự chết: sự thống trị của Hoàng Tử sự chết! Vì chính nó, Tên Địch Thù, “kẻ giết người từ lúc khởi đầu”. Chính nó chủ sự ngày hội dã man này, chính nó điều khiển vòng xoay tàn bạo của các thế hệ; các thế hệ sinh ra, hy vọng nhưng lại chết trong vòng quay ác nghiệt, không một chân trời nào khác hơn là chính sự chết.

Cũng vậy, chính lúc này, Đức Giêsu đối diện với Tên Địch Thù, Đối Thủ của Ngài. Ngài, sự sống, Chúa của sự sống, đến trong thế gian để thông ban sự sống, Ngài cũng phải đương đầu với sự chết, sự chết của Ngài. Địch Thù của Ngài đã chờ ở đó.

Nhưng sự sống của Ngài, không ai lấy được: Ngài tự ý ban tặng nó cách hoàn toàn tự do. Ngài có quyền ban tặng và lấy lại sự sống (x. Ga 10,18). Sự sống được tặng ban và lấy lại của Ngài sẽ bẻ gãy vòng kim cô hung ác, mở cho con người khung trời hy vọng lớn lao. Vì không chỉ một mình Lazarô cần được đem ra khỏi mồ, nhưng là toàn thể nhân loại phải được rựt khỏi tay kẻ Địch Thù. Ngài sẽ không thực hiện điều đó bằng việc trả lại cho con người cuộc sống dương gian, trả lại như thế chỉ kéo giãn kỳ hạn. Quả vậy, trong trường hợp này, con người vẫn sẽ là một hữu thể phải chết. Vậy là phải bẻ tan chiếc vòng định mệnh, phải làm sao để con người có thể bước vào một cuộc sống mới, một cuộc sống còn mãi và sự chết không còn thống trị. Một sự sống tự khẳng định trong chính sự chết. Đức Giêsu, chỉ một vài ngày nữa, trước khi chết, sẽ bảo các môn đệ: “Thủ lãnh thế gian đang đến. Đã hẳn, nó không làm gì được Thầy”. “Can đảm lên! Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16,33).

Tự thâm tâm, chính lúc này đây, Đức Giêsu nhìn thấy tất cả những điều đó liên tiếp xâu kết lại với nhau khi Ngài đang đứng trước Matta. Thế rồi, cách thanh thản, đầy quyền uy, Ngài tuyên bố với chị, đáp lại sự chờ đợi của chị và của toàn thể nhân loại: “Thầy là sự Sống Lại và là Sự Sống”.

Lời Ngài thật vô biên như những lời đã nói với người phụ nữ Samaria về việc thờ phượng trong thần khí và sự thật. Những lời vượt thời gian, vượt trên cả những sự kiện đặc thù đã khơi gợi chúng. Lời ngân vọng đến vĩnh cửu. Đừng vội tìm cách cân đo những gì nó chất chứa, hãy để chúng tự bộc lộ trong cái vô biên, trong sự uy nghiêm viên mãn tột cùng của chúng.

“Ta là…”. Đó là lời khẳng định của một Hữu Thể thống trị thời gian. Hữu thể này được định nghĩa trọn vẹn bởi hai từ: “Sống Lại” và “Sự Sống”. Những lời này làm vang vọng hành vi sáng tạo nơi Ngôi Lời tạo dựng. Chúng mang theo hơi thở và quyền năng trong chiều kích của lời tạo dựng. Những lời ấy tuyên bố chiến thắng cuối cùng của sự sống trên sự chết. Tự thân, chúng là tất cả Tin Mừng. Với những lời này, sự sống được giải thoát khỏi chân trời sự chết tìm lại hăng nhiệt ban đầu cùng tất cả ý nghĩa trọn vẹn của mình. Mọi sự lại trở nên có thể. Dẫu cho đông dai dẳng có thể vẫn kéo dài trên những cánh đồng nhân loại chúng ta; nhưng kìa, xuân đã nở rộ trong tâm hồn Con Người.

Thuật lại những lời này và đặt trên môi miệng Đức Giêsu, tác giả Tin Mừng đã viết chúng dưới ánh sáng Phục Sinh. Chính trong ánh sáng Phục Sinh mà những lời này được hiểu. Đó là lời khẳng định của sự sống đã chiến thắng sự chết. Không phải bởi một cuộc trở lại đơn thuần đời sống dương thế trước đó, nhưng bởi sự hiển hiện của một con người mới. Đức Kitô Phục Sinh đâu phải là sự hoàn sinh đơn thuần của một Giêsu thành Nazareth. Sáng ngày Phục Sinh, Đức Kitô ra khỏi mồ, hiện ra với Mađalêna; Đức Kitô ấy không phải là một Giêsu người Galilê với bản án thập giá ba ngày trước đó nay trở lại cuộc sống thường nhật. Ngài là Đấng sau khi trải nghiệm cái chết, băng qua vương quốc các tầng địa ngục, nay biểu lộ tình trạng sáng ngời của Con Thiên Chúa, và cuối cùng, tự khẳng định như một con người nguyên vẹn: Con người sống động với tất cả sự sống toàn diện của chính Thiên Chúa. Cuộc phục sinh này là sự xuất hiện của một thực tại mới, một thực tại mà ở đó, toàn thể vũ trụ được sửa chữa lại toàn bộ nhờ hơi thở của Ngôi Lời tác tạo và được hoàn lại cho sự sống vốn là ánh sáng.

Chính trong ánh sáng Phục Sinh này mà những lời Đức Giêsu nói với Matta tự chúng đầy tràn sức sống: “Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin như thế không?”.

Đáp ứng nỗi khát khao sâu xa của Matta về một sự sống không còn biết đến đau khổ, chia lìa và tang tóc, Đức Giêsu nại đến niềm tin của bà. Ai tin vào Ngài thì đã sống cuộc sống này, một cuộc sống chiến thắng sự chết. Sự sống này không chỉ dành cho ngày mai, không dành cho ngày sau cùng, cũng không dành cho thế giới bên kia. Chính hôm nay, sự sống đó được trao ban. Sự sống này đã ở trong tâm hồn mọi kẻ tin. Sự sống ấy có thể băng qua sự chết và mải sống nguyên tuyền. Sự chết không có quyền gì trên nó vì sự sống này là sự thông hiệp với sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa. Vì thế, nó không chịu giới hạn trong sự bất tử của linh hồn. Trong sự sống đó, chính con người toàn diện, con người sống động đã thông dự vào Con Người toàn vẹn trong Đức Kitô Phục Sinh. Trong tâm hồn con người, sự sống đó là một hạt giống phục sinh. Hạt giống ẩn giấu, nhưng linh hoạt, đó là lực đẩy ban đầu vốn sẽ ra sức nâng con người sống động lên trong luồng sinh khí của niềm hy vọng. Sự sống này, một sự sống mà Đức Giêsu nắm giữ bí quyết, chỉ có thể được mặc khải ngang qua một dấu chỉ gắn liền với sứ mệnh của Ngài và khơi gợi niềm tin vào con người Ngài.

“Chị có tin không?”, Đức Giêsu hỏi Matta. “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”. Trước việc tuyên xưng niềm tin vào Đấng Thiên Sai này, Đức Giêsu sẽ có thể hoàn tất dấu chỉ.

Cảm nhận điều sắp xảy ra, bấy giờ Matta chạy đi tìm em mình đang ngồi ở nhà. Bà khẽ nói với em: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy!”. Nghe tin này, Maria lập tức đứng dậy, vội vã đến với Đức Giêsu. Gặp Ngài, Maria phủ phục dưới chân Ngài và thưa: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết”. Khi thấy chị khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. Ngài nói: “Các người để xác anh ấy ở đâu?”, họ trả lời: “Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem”. Đức Giêsu không thể cầm nước mắt. Bấy giờ, những người Do Thái hiện diện ở đó bảo nhau: “Kìa xem, ông ta thương anh Lazarô biết mấy!”.

Thổn thức trong lòng một lần nữa, và này, Ngài đến mồ. Đó là một cái hang với tảng đá đặt phía trên. Đức Giêsu bảo: “Đem phiến đá này đi!”. Matta lưu ý: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày”. Nhưng Đức Giêsu phản ứng lại: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng, nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?”. Thế rồi người ta khiêng tảng đá đi. Ngước mắt lên trời, Đức Giêsu nói:

“Lạy Cha, con cảm tạ Cha

vì Cha đã nhậm lời con.

Phần con,

con biết Cha hằng nhậm lời con,

nhưng vì dân chúng đứng quanh đây,

nên con đã nói để họ tin

là Cha đã sai con” (Ga 11,41-42).

Quả thế, ở đó có nhiều người Do Thái đến an ủi hai chị em Matta. Mọi người tụ tập trước ngôi mộ và họ chờ đợi, tò mò xem điều gì sẽ xảy ra. Một số người xầm xì: “Ông ta đã mở mắt cho người mù lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết sao?”.

Ngay sau khi dâng lời tạ ơn, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Anh Lazarô, hãy ra khỏi mồ!”. Người chết đi ra, chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn. Đức Giêsu bảo mọi người: “Cởi khăn và vải cho anh ấy và để anh ấy đi”.

Khi gọi Lazarô trở lại với cuộc sống, Đức Giêsu trao ban một dấu chỉ về sự sống mà Ngài có sứ vụ mặc khải và thông truyền. Nhưng dấu chỉ không phải là thực tại, đó chỉ là hình ảnh của thực tại, là bề ngoài khả giác giúp con người có một tầm nhìn xa hơn, cao hơn. Đó là một năng lực đánh thức cho phép khát vọng lớn lên và thăng hoa. Nhưng khổ nỗi, khát vọng lại say mê cái vỏ bọc cảm giác và hấp dẫn trần tục của dấu chỉ nên mải đeo bám vào đó. Vì thế, thay vì đứng dậy, nó bò, nó cuộn quanh dấu chỉ như thể đó là thực tại. Bấy giờ, dấu chỉ không còn là dấu chỉ; và niềm khát khao một khi gắn chặt với một thoả mãn tức thời và chóng qua lại chỉ có thể khát khao mãi và lặp đi lặp lại như thế: luôn luôn không thoả mãn, và thế là vẫn bị đóng chặt trong khung trời sự chết.

Hoàn toàn giống với việc hoá bánh ra nhiều, việc làm cho Lazarô sống lại chỉ là một dấu chỉ Đức Giêsu trao ban để nới rộng chiều kích khát khao của con người hầu mở lòng họ đón nhận một sự sống lâu bền hơn. Tự thân, việc sống lại này chỉ là sự trở lại với sự sống vốn vẫn phải chết. Nó không giải quyết được gì, sự chết vẫn cứ đưa ra phán quyết cuối cùng. Nhưng khi làm phép lạ này, Đức Giêsu cho thấy trong Ngài, một năng lực sống có thể đánh bại sự chết. Sự sống thật mà Ngài muốn thông ban cho chúng ta là sự hiệp thông với sự sống vĩnh cửu nơi Thiên Chúa trong sự chết và sự phục sinh của Ngài. Sự thông hiệp này không chỉ là một sự kiện của linh hồn, nó làm sống động toàn thể con người, thân xác và linh hồn trong sự sống mới qua việc thông dự vào một con người toàn hảo, nơi Đức Kitô Phục Sinh; như thế, thông dự vào thân xác vinh quang của Ngài. Tắt một lời, nhờ niềm tin, sự sống đó đã là sự sống của Đấng Phục Sinh trong chúng ta.

Lm. Minh Anh chuyển ngữ
In ngày: 27/11/2024
Website: Truyền bá Tin Tức Công Giáo
Print