WHĐ (23.05.2011) –
Ngày 16-5 vừa qua, Bộ Giáo lý Đức tin đã
công bố Thư luân lưu nhằm giúp
các Hội đồng Giám mục soạn thảo Bản Hướng dẫn giải
quyết các trường hợp giáo sĩ lạm dụng tình dục trẻ vị thành
niên.
Toàn văn Thư luân
lưu:
“Trong những trách nhiệm quan trọng của Giám mục giáo phận khi
thi hành nhiệm vụ bảo đảm lợi ích chung của các tín hữu, nhất là bảo vệ trẻ em và những người trẻ, có một điều đó là Giám
mục phải giải quyết một cách thích đáng các trường hợp
giáo sĩ trong giáo phận của ngài lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên. Một việc giải quyết
như thế bao gồm sự tiến hành các thủ tục thích
hợp nhằm
giúp đỡ các nạn nhân bị lạm dụng, và cũng nhằm giáo dục cộng đồng dân
Chúa về bảo vệ trẻ vị thành niên. Việc giải quyết sẽ phải được chuẩn bị
đầy đủ nhằm thực thi giáo luật cách thích đáng, đồng thời, đáp
ứng những yêu cầu của pháp luật dân sự.
I.
Tổng quan
a)
Những nạn nhân bị lạm dụng tình dục
Giáo
Hội, qua đích thân Đức Giám mục hoặc vị đại diện của ngài, cần phải sẵn sàng
lắng nghe các nạn nhân và gia đình của họ, đồng thời liệu cách giúp họ về tâm
lý và tinh thần. Điều này đã được Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI thực hiện, qua
những chuyến tông du của ngài, như một mẫu gương sáng ngời về việc sẵn sàng gặp
gỡ và lắng nghe các nạn nhân bị lạm dụng tình dục. Trong những cuộc gặp gỡ đó,
Đức Thánh Cha hết sức quan tâm đến các nạn nhân, bày tỏ sự đồng cảm và nâng đỡ,
như lời lẽ chúng ta đọc được trong “Thư Mục vụ gửi Dân Chúa tại Ireland”: “Anh
chị em đã phải chịu đựng đau khổ xiết bao và lòng tôi thật sự đau đớn. Tôi biết
không gì xoá được nỗi đau anh chị em đã phải chịu. Niềm tin của anh chị em bị
phản bội và phẩm giá của anh chị em bị xúc phạm”.
b)
Bảo vệ các trẻ vị thành niên
Tại
một số quốc gia, nhằm bảo đảm cho trẻ vị thành niên được sống trong những “môi
trường an toàn”, các chương trình giáo dục và ngăn ngừa đã được khởi xướng ngay
trong Giáo Hội. Các chương trình này tìm cách giúp đỡ phụ huynh cũng như những người làm công tác mục vụ và trường học nhận ra những dấu
hiệu của sự lạm dụng và có biện pháp thích hợp. Những chương trình như
thế thường được xem là mô hình trong việc dấn thân chấm
dứt các trường hợp lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên trong
xã hội ngày nay.
c)
Việc đào tạo các linh mục và tu sĩ tương lai
Năm
2002, Đức Gioan Phaolô II tuyên bố: “Không có chỗ trong hàng ngũ linh mục và
đời sống tu trì dành cho những kẻ có thể sẽ làm hại giới trẻ” (Huấn từ trong
cuộc tiếp kiến các Hồng y Hoa Kỳ, 23-4-2002, số 3). Phát biểu này kêu gọi tinh
thần trách nhiệm đặc biệt của các
Giám mục, các bề trên thượng
cấp và những
ai có trách nhiệm đào tạo các linh mục và
tu sĩ tương lai. Những chỉ dẫn
được đưa
ra trong Tông huấn Pastores
Dabo Vobis cũng như hướng dẫn của các Bộ có thẩm quyền của Toà Thánh
đều nhấn mạnh phải bảo đảm phân định đúng ơn kêu gọi cũng như đào tạo các ứng
viên có được sự lành mạnh về nhân bản và đời sống thiêng liêng. Đặc biệt, ứng viên phải được đào luyện để quý trọng giá trị của sự
khiết tịnh, đời sống độc thân và
trách nhiệm của người
giáo sĩ đối với tình phụ tử thiêng liêng. Việc đào tạo cũng phải bảo đảm
sao cho các ứng viên hiểu rõ được kỷ luật của Giáo Hội về các vấn đề này. Những
hướng dẫn cụ thể hơn có thể được lồng vào các chương trình đào tạo trong các chủng viện và
các
cơ sở huấn luyện thông qua Ratio institutionis sacerdotalis (Định chế và Chỉ dẫn về Đào tạo Linh mục) riêng của mỗi nước, Học viện Đời sống Thánh hiến và Tu đoàn Tông đồ.
Hơn
nữa, phải đặc biệt lưu ý cần có sự trao đổi thông tin đối với những ứng viên
linh mục hoặc tu sĩ chuyển từ chủng viện này sang chủng viện khác, giữa các
giáo phận khác nhau hoặc chuyển giữa các dòng với các giáo phận.
d)
Nâng đỡ các linh mục
1.
Giám mục có trách nhiệm coi sóc mọi linh mục của mình như một người cha và
người anh. Hơn nữa, ngài phải đặc biệt lưu tâm chăm lo việc thường huấn hàng
giáo sĩ, nhất là những năm đầu sau khi thụ phong, nhấn mạnh tầm quan trọng của
việc cầu nguyện và nâng đỡ nhau trong tình anh em linh mục. Các linh mục cần
được thông tin về những thiệt hại gây ra cho các nạn nhân bị giáo sĩ lạm dụng
tình dục. Các linh mục cũng phải được biết về trách nhiệm của bản thân về
phương diện giáo luật cũng như pháp luật dân sự. Các linh mục cần phải được
giúp đỡ để nhận ra có những dấu hiệu cho thấy người nào đó đã có hành động lạm
dụng đối với trẻ nhỏ.
2.
Trong việc giải quyết các trường hợp lạm dụng được trình báo, các giám mục phải
hết sức tuân thủ kỷ luật của giáo luật và pháp luật dân sự, với sự tôn trọng
các quyền của tất cả các bên.
3.
Giáo sĩ bị cáo buộc được coi là vô tội cho đến khi có bằng chứng ngược lại. Tuy
nhiên, giám mục vẫn có thể hạn chế việc thi hành tác vụ giáo sĩ cho đến khi các
cáo buộc được làm sáng tỏ. Nếu vụ việc đã được sáng tỏ, cần phải làm tất cả
những gì có thể để phục hồi thanh danh cho giáo sĩ bị vu cáo.
e)
Hợp tác với chính quyền dân sự
Lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên không chỉ là một tội phạm về
mặt giáo luật mà còn là một tội phạm bị truy tố bởi luật dân sự. Mặc
dù quan hệ với chính quyền dân sự có sự khác biệt
tại các quốc gia khác nhau, tuy nhiên điều quan trọng là hợp
tác với nhà
chức trách trong trong phạm vi trách nhiệm của
họ. Cụ thể, cần phải luôn luôn tuân theo những quy
định của pháp luật dân sự về việc tường trình các tội ác cho nhà chức trách
miễn là không không phương hại tòa trong thuộc về bí tích. Hơn
nữa, sự hợp tác này không chỉ liên quan đến các vụ giáo sĩ lạm dụng tính dục mà
kể cả các tu sĩ hoặc giáo dân đang làm việc trong các cơ cấu của Giáo Hội.
II.
Tóm tắt giáo luật hiện hành liên quan đến giáo sĩ phạm tội lạm dụng tình dục
trẻ vị thành niên
Ngày 30-4-2001, Đức Giáo hoàng Gioan
Phaolô II đã ban hành Tự sắc (Motu proprio)
Sacramentorum sanctitatis tutela [SST,
Bảo vệ sự thánh thiện của các Bí tích], theo đó tội
lạm dụng tình dục trẻ vị
thành niên dưới 18 tuổi mà
một giáo sĩ mắc phải được liệt vào số các tội nặng hơn (delicta graviora) được dành cho Bộ Giáo
lý Đức tin. Thời hiệu cho tội phạm này được ấn
định 10 năm kể từ lúc nạn nhân tròn 18 tuổi. Luật của Tự
sắc được áp dụng cho cả giáo sĩ theo nghi lễ Latinh
cũng như nghi lễ Đông phương, cũng như cho cả giáo sĩ giáo phận và giáo
sĩ dòng.
Vào năm 2003, Đức Hồng y Ratzinger, lúc đó là Bộ trưởng Bộ Giáo lý Đức tin, đã được Đức Gioan Phaolô II ban cho một số năng quyền đặc biệt để linh hoạt hơn trong việc tiến hành các thủ tục hình sự liên quan đối với các tội
nặng hơn này. Các biện pháp gồm có việc sử dụng tố tụng hình sự về hành chính và việc yêu cầu ra khỏi hàng giáo sĩ tự sở quyền (ex officio) trong những trường
hợp nghiêm trọng hơn. Hiện
nay những năng quyền này được đưa vào trong Tự sắc
duyệt lại được Đức Bênêđictô XVI phê chuẩn
ngày 21-5-2010. Theo những luật mới, trong trường hợp lạm dụng trẻ vị thành niên, thời hiệu được
nâng lên 20 năm, tính từ lúc nạn nhân tròn 18 tuổi. Tuỳ trường hợp, Bộ Giáo lý Đức tin có
thể bỏ qua thời hiệu này. Về mặt giáo luật, tội tàng trữ, sở hữu hay phát tán ảnh khiêu dâm trẻ em
cũng được nói đến trong Tự sắc duyệt lại này.
Trách nhiệm giải quyết các trường hợp lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên trước hết
là của các giám mục hoặc của các bề trên thượng cấp. Nếu lời cáo buộc có vẻ là thực,
thì giám mục
hay bề trên thượng cấp hay vị đại diện của các ngài phải tiến hành điều tra sơ bộ, theo khoản 1717
của Bộ Giáo luật, khoản
1468 của Bộ giáo luật cho các Giáo Hội Đông phương và khoản
của 16 của Tự sắc SST.
Nếu lời cáo buộc được xét là đáng tin, thì trường hợp đó
phải trình
cho Bộ Giáo lý Đức tin. Sau khi xem
xét, Bộ Giáo lý Đức tin sẽ chỉ ra
những bước tiếp theo phải làm. Đồng thời, Bộ Giáo lý Đức tin sẽ đưa ra những chỉ
dẫn để chắc
chắn rằng các biện pháp thích hợp được thực hiện, vừa bảo đảm một
vụ xử công bằng đối với các giáo sĩ bị cáo buộc, trong sự tôn trọng quyền biện hộ căn bản của họ, vừa để bảo vệ lợi ích của Giáo Hội, gồm cả lợi ích của các
nạn nhân. Về
điểm này, cần lưu ý rằng, việc áp đặt một
hình phạt vĩnh
viễn, như việc loại khỏi hàng giáo sĩ, thông thường đòi hỏi một vụ tố tụng tư pháp hình sự. Theo Giáo
luật (x.
khoản 1342), Đấng bản quyền không được
tuyên án phạt vĩnh viễn bằng những nghị định ngoại tư pháp. Vụ việc phải trình
cho Bộ Giáo lý Đức tin
và Bộ sẽ đưa ra phán quyết chung cuộc về tội phạm
của giáo sĩ và tư cách thi hành thừa tác vụ của giáo sĩ ấy, cũng như việc ra hình phạt vĩnh
viễn sau đó (SST, khoản 21, §2).
Các biện pháp giáo luật áp dụng đối với một giáo sĩ bị
coi là lạm dụng tình dục một trẻ vị thành niên thường thuộc hai loại: 1)
các biện pháp hạn chế triệt để tác vụ công khai hay ít ra cấm bất kỳ tiếp xúc nào với các trẻ vị thành niên. Các biện pháp này có thể gia tăng bằng một giới luật hình sự; 2) các hình phạt của Giáo Hội, với hình phạt nặng nhất là loại
khỏi hàng giáo sĩ.
Trong một vài trường hợp, theo yêu cầu của chính vị giáo sĩ, việc miễn chuẩn các bổn phận
của
hàng giáo sĩ, gồm cả luật độc thân, có thể được chấp thuận vì lợi ích của Giáo Hội
(pro bono Ecclesiae).
Việc điều tra sơ bộ và toàn bộ vụ án
phải được thực hiện với sự tôn trọng tính
riêng tư của những người có liên quan và quan
tâm đến thanh danh của họ.
Trừ phi có những lý do nghiêm trọng ngược lại, trước khi vụ án được trình
lên Bộ Giáo lý Đức Tin, vị giáo sĩ bị cáo buộc phải được báo cho biết về cáo buộc chống lại ngài, và được có cơ
hội đáp lại cáo buộc ấy. Khi điều tra sơ bộ, với sự khôn ngoan giám mục sẽ quyết định báo cho người bị cáo buộc những gì.
Bổn phận của giám mục hay của bề trên thượng cấp vẫn
là đảm bảo công ích bằng cách ấn định sử dụng các biện pháp phòng ngừa
nào trong khoản 1722 của Bộ Giáo luật và khoản 1473 của Bộ Giáo luật của các Giáo hội Đông phương. Theo điều
19 của Tự sắc SST, một khi bắt đầu
cuộc điều tra sơ bộ,
bổn phận này phải được thực thi.
Sau cùng, cần lưu ý rằng, khi một Hội đồng Giám mục muốn đề ra những luật
riêng, không
cần được Tòa thánh chuẩn nhận, thì các điều luật ấy phải được hiểu như là một bổ túc chứ không phải thay thế cho luật lệ
phổ quát. Vì thế, các điều luật đặc thù ấy
phải hài hòa với Bộ Giáo luật CIC/CCEO và
với Tự sắc Sacramentorum sanctitatis tutela (30-4-2001), đã được cập nhật ngày 21-5-2010. Trong trường hợp Hội đồng Giám mục quyết định thiết lập những luật ràng buộc, cần
phải xin các Bộ có thẩm quyền của Giáo triều Rôma phê
chuẩn.
III.
Những đề nghị với các đấng bản quyền về các thủ tục
Bản
Hướng dẫn do Hội đồng Giám mục soạn thảo phải đề ra hướng dẫn cho các giám mục
giáo phận và các bề trên thượng cấp khi các ngài được thông báo về các
trường hợp được cho là lạm dụng tình dục trẻ vị thành niên do các linh mục đang
sống trên địa hạt thuộc quyền tài phán của các ngài vi phạm. Bản Hướng dẫn này
phải lưu ý đến những điểm sau đây:
a) khái niệm “lạm
dụng tình dục trẻ vị thành niên” phải phù hợp với định nghĩa tại khoản 6 của Tự
sắc SST (“tội phạm điều răn thứ sáu do một giáo sĩ vi phạm với một trẻ
vị thành niên dưới 18 tuổi), cũng như với cách giải thích và với án lệ của Bộ Giáo lý Đức tin, đồng thời lưu tâm đến
luật dân sự của quốc gia ấy.
b) người tố giác tội
phạm phải được đối xử cách tôn trọng. Trong những trường hợp việc lạm dụng tình
dục có liên quan với một tội phạm khác nghịch với phẩm giá của Bí tích Sám Hối (SST,
khoản 4), người tố giác có quyền đòi hỏi giữ kín tên mình đối với vị linh mục
bị cáo buộc (SST, khoản 24).
c) thẩm quyền Giáo
Hội phải cam kết giúp đỡ các nạn nhân về mặt tinh thần và tâm lý.
d) việc điều
tra những cáo buộc phải được thực hiện với sự tôn trọng nguyên tắc riêng tư và
thanh danh của những người có liên quan.
e) trừ phi có những lý
do trái ngược nghiêm trọng, cả trong giai đoạn điều tra sơ khởi, phải báo cho
vị giáo sĩ bị cáo buộc và đồng thời cho ngài cơ hội trả lời.
f) các cơ quan tư vấn
điều tra và thẩm định từng trường hợp, được dự kiến
nơi một số nước, không được thay thế việc phân định và thẩm quyền quản
trị của mỗi giám mục.
g) bản Hướng dẫn phải cân nhắc đến pháp luật của quốc gia nơi
có Hội đồng Giám mục, đặc biệt khi có liên quan đến bổn phận phải thông báo cho
các nhà chức trách dân sự.
h) đang khi thi hành
kỷ luật hay diễn ra vụ án hình sự, vị giáo sĩ bị cáo buộc vẫn phải được hưởng
phương tiện sinh sống xứng đáng và công bằng.
i) một giáo sĩ không
được công khai thi hành tác vụ trở lại, nếu tác vụ ấy gây nguy hiểm cho trẻ vị
thành niên hay trở thành gương xấu cho cộng đoàn.
Kết
luận
Bản
Hướng dẫn do Hội đồng Giám mục đề ra nhằm bảo vệ trẻ vị thành niên và giúp các
nạn nhân có được sự trợ giúp và hoà giải. Bản Hướng dẫn cũng chỉ ra
rằng trách nhiệm giải quyết các tội giáo sĩ lạm dụng tình dục trẻ vị
thành niên trước tiên là của giám mục địa phận. Cuối cùng, Bản Hướng dẫn này sẽ
dẫn đến một định hướng chung trong mỗi Hội đồng Giám mục, bằng cách giúp cho
các nỗ lực của từng giám mục trong việc bảo vệ các trẻ vị thành niên phối hợp
với nhau tốt hơn.
Rôma, Bộ Giáo lý Đức tin, ngày 03 tháng Năm 2011
Hồng y William Levada,
Bộ trưởng
Luis F. Ladaria, S.J,
Tổng Giám mục hiệu tòa Thibica
Thư ký
[Đức
Thành dịch theo bản tiếng Anh của vatican.va]