Cách thế giữ đạo của mỗi cá nhân, mỗi
gia đình, mỗi dân tộc có khác nhau tuỳ theo nhân cách tính, tâm tính,
lòng đạo của mỗi người. Thêm vào đó cách giáo dục trong gia đình, cách
dạy giáo lý tại nhà thờ hoặc văn hoá mà người ta chịu ảnh hưởng, nhất là
từ tuổi thơ ấu, thiếu niên cũng có ảnh hưởng đến việc giữ đạo của mỗi
cá nhân.
Giữ đạo tại tâm - khép kín
Nghe
những người không đến nhà thờ đọc kinh, cầu nguyện, dâng lễ biện minh
cho mình rằng họ chỉ cần giữ đạo tại tâm trong lòng là đủ. Họ viện dẫn
lời Đức Giêsu nói với người đàn bà xứ Samari: Nhưng giờ đã đến- và chính
là lúc này đây - giờ mà những người thờ phượng đích thực, sẽ thờ phượng
Thiên Chúa Cha trong thần khí và sự thật (x. Ga 4,23) để lý giải cho
việc không đến nhà thờ để cầu nguyện và thờ phượng. Họ không ý thức được
rằng Đức Giêsu dùng lời Thánh Kinh này để trả lời cho người đàn bà khi
chị ta thắc mắc về một tranh chấp có tính cách chính trị giữa người Do
Thái và người Samari là không biết phải thờ phuợng Chúa ở Giêrusalem hay
ở trên núi Gerizim?
Triết gia cũng như thần học gia thường tìm
kiếm xem Thiên Chúa ở đâu và hiện diện thế nào trong vũ trụ. Người ta
cho rằng Thiên Chúa hiện diện khắp nơi, nhưng họ cũng dành những cách
thế và những nơi chốn đặc biệt cho Thiên Chúa ngự trị. Trong thời Cựu
ước, đền thờ và hòm bia giao ước được coi là những nơi ngự trị đặc biệt
của Thiên Chúa như Chúa phán với vua Salômôn: Ta đã chọn và thánh hoá
nhà này, để muôn đời danh Ta ngự tại đây (x. 2 Sb 7,16; 1 V 9,3). Ðó là
lý do tại sao Đức Giêsu tỏ ra khó chịu với những người đổi tiền bạc
quanh Đền Thờ vì họ đã biến Nhà Chúa thành nơi buôn bán (Ga 2,16). Trong
Tân ước, thánh đường có Nhà Tạm hay nhà chầu là nơi Mình Thánh Chúa
Kitô ngự. Chúa Giêsu là Thiên Chúa cũng hiện diện khắp nơi, nhưng đặc
biệt Chúa Giêsu hiện diện trong Bí tích Thánh Thể nơi Nhà Tạm. Ðó chính
là thánh đường Chúa Giêsu ngự trị, như Người nói đến (x. Ga 2,21).
Thánh
đường hay nhà thờ là biểu hiệu của hai sự việc quan trọng. Trước hết,
thánh đường là biểu hiệu của sự hiệp nhất và cộng đồng [1], quy tụ giáo
dân lại trong một Nhiệm Thể Mầu Nhiệm của Ðức Kitô, để cầu nguyện, thờ
phượng, cảm ta và xin ơn. Thứ đến, thánh đường còn là biểu hiệu của sự
tiếp nối và truyền thống, có liên kết với quá khứ và cùng nhau hướng về
tương lai [2] để đối phó với những đổi thay và thách đố mới trong xã hội
và Giáo hội. Nhìn về quá khứ, chẳng hạn giáo xứ mà người tín hữu thuộc
về được thiết lập năm này năm nọ do cha nọ cha kia sáng lập. Nhà thờ
giáo xứ được xây dựng thời cha Cột, cha Kèo,...
Có những người
cho rằng Thiên Chúa hiện diện khắp mọi nơi nên họ không cần phải đến
thánh đường để cầu nguyện và thờ phượng. Tuy nhiên, họ phải nhận thức
rằng, loài người có xác nên cần những biểu hiệu bên ngoài để khơi dậy
những tâm tình đạo đức bên trong. Loài người cũng cần những biểu hiệu
đạo giáo để đưa họ vào thế giới thần linh và để khơi dậy những tâm tình
thiêng liêng. Nếu là thiên thần, loài người không cần biểu hiệu. Còn
loài người có thân xác thì lại cần biểu hiệu như thánh đường, bàn thờ,
tượng ảnh, hoa nến, đèn điện, hương khói để giúp đi vào thế giới linh
thiêng. Loài người cũng cần những tác động phụng tự như chắp tay, khoanh
cánh, cúi đầu, phủ phục... trong việc thờ phượng để khơi dậy đức tin và
tâm tình đạo đức bên trong. Do đó, người chủ trương giữ đạo tại tâm,
không cần đến thánh đường để cầu nguyện và thờ phượng, là lừa dối mình
vì không có được những biểu hiệu để giúp khơi dậy tâm tình nội tại; cũng
không có được sự thúc đẩy của người khác cho việc thực hành đức tin.
Đức
tin của người tín hữu không phải chỉ thuộc lĩnh vực tư riêng, nhưng cần
phải làm chứng và chia sẻ. Trong Thánh Kinh Cựu ước, học trò theo học
các thầy rabbi Do Thái giáo được gọi là môn đệ. Trong Thánh Kinh Tân
ước, những người nghe theo lời Chúa dạy và sống theo đường lối Phúc Âm
cũng được gọi là môn đệ. Trong số các môn đệ, có mười hai người thân tín
đi theo Ðức Giêsu được gọi là tông đồ (x. Mt 12,2-4; Mc 3,16-19; Lc
6,13-16, Cv 1,13).
Theo nghĩa hẹp thì linh mục và tu sĩ thường là
thợ gặt cánh đồng truyền giáo. Tuy nhiên, theo nghĩa rộng thì tất cả
mọi người tín hữu đều là thợ gặt đồng lúa của Chúa. Qua Bí tích Rửa Tội,
người tín hữu được gọi để sống đời sống đức tin. Qua Bí tích Thêm Sức,
người tín hữu được gọi để làm chứng cho đức tin. Như vậy, mỗi người tín
hữu đều là môn đệ của Đức Kitô. Ðời sống của người môn đệ phải là phản
ảnh đức tin và là chứng nhân cho đức tin họ đã lãnh nhận.
Ðến
thánh đường thờ phượng là một cách thế làm chứng cho đức tin. Khi thờ
phượng công cộng nơi thánh đường thì người có đức tin yếu sẽ được nâng
đỡ, khuyến khích do người có đức tin mạnh. Ðến thánh đường thờ phượng,
người tín hữu được bổ dưỡng và tăng sức bằng Lời Chúa và Mình Thánh
Chúa. Khi kiệt sức về đàng thiêng liêng, họ lại đến nhà thờ để được bổ
dưỡng và tăng sức bằng Lời Chúa và Mình Thánh Chúa. Theo Thánh Giacôbê
thì "đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết" (Gc 2,17).
Đức
tin của người Công giáo vừa dựa trên lý trí, vừa dựa trên tình cảm. Nếu
đức tin chỉ dựa trên lý trí mà thôi, thì đời sống đức tin sẽ trở nên
trừu tượng, lạnh lùng, khô khan và cằn cỗi. Ðời sống đức tin dựa trên
tình cảm được biểu lộ qua lòng đạo đức bình dân như việc tôn thờ Mình
Thánh Chúa trong giờ chầu Thánh Thể, việc suy gẫm đàng Thánh giá, việc
cầu nguyện tạ ơn và xin ơn, việc tham dự vào các á bí tích như làm phép
lành phục vụ cộng đoàn, làm phép lành trên người, trên nơi chốn, trên sự
vật; việc tôn sùng Mẹ Maria và các thánh như hôn kính ảnh tượng và
những cách thế người Công giáo bày tỏ đức tin như quỳ gối, chắp tay, cúi
đầu, làm dấu Thánh giá... Ðó là những biểu hiệu để giúp người tín hữu
khơi dậy và duy trì đức tin.
Như vậy, đời sống đức tin của người
Công giáo được hỗ trợ một cách tối đa: bằng lời bầu cử của Mẹ Maria và
các thánh, bằng việc người tín hữu cầu nguyện và nâng đỡ đức tin của
người khác. Nếu vào nhà thờ Công giáo mà người ta cảm thấy ấm cúng là vì
họ cảm thấy được bao bọc, ấp ủ và che chở qua sự hiện diện của Bí tích
Thánh Thể và sự hiện diện của Mẹ Maria và các thánh dưới hình thức tượng
ảnh với những đèn nến lung linh và hoa lá trang hoàng làm cho bầu khí
sống động.
Nhà thờ hay thánh đường là trung tâm điểm của đời sống
đức tin của người Công giáo. Nhà thờ là nơi người tín hữu thường lui
tới để cầu nguyện và thờ phượng hằng tuần hoặc hàng ngày, để nghe Lời
Chúa và rước Mình Thánh Chúa. Ngoài giờ cầu nguyện và thờ phượng công
cộng, người tín hữu còn đến nhà thờ để cầu nguyện riêng tư. Khi mẹ
Têrêsa thành Calcutta được hỏi tại sao bà có đủ nghị lực để tiếp tục
việc phục vụ trẻ em nghèo đói bên Ấn Độ một cách liên tục và hăng say
như vậy, bà trả lời bà được sức mạnh nơi Chúa Thánh Thể và bà cầu nguyện
hằng giờ trước Mình Thánh Chúa ngự. Có những người tín hữu khác cũng
tìm đến nhà thờ cầu nguyện riêng để được sức mạnh và niềm an ủi. Họ ngồi
đó một mình hàng giờ đồng hồ trong góc xó nhà thờ, chiêm ngắm sự hiện
diện của Chúa trong phép Thánh Thể và để cho lòng mình nói với Chúa.
Thánh
đường hay nhà thờ còn là nơi mà người tín hữu đến để lãnh nhận các bí
tích như Bí tích Rửa Tội, Rước Lễ lần đầu, Thêm Sức, cưới hỏi, chịu
phép, xức dầu thánh. Và khi nằm xuống vĩnh viễn thì xác người tín hữu
lại được mang đến nhà thờ để được cử hành Thánh lễ An táng. Như vậy, có
thể nói người tín hữu được sinh lại trong nước và Thánh Thần ở trong nhà
thờ và khi chết, thi thể lại được mang đến nhà thờ để được làm lễ an
táng.
Không đến nhà thờ đọc kinh, dâng lễ cũng có thể là do bất
bình với linh mục sở tại, nghĩa là 'giận cá băm thớt'. Có người giận
linh mục này thì đi nhà thờ khác; có người giận một linh mục thì bỏ luôn
nhà thờ, nại đến chủ trương giữ đạo tại tâm để bào chữa cho mình và rồi
cứ giữ đạo tại tâm mãi cho tới lúc không còn gì để giữ nữa.
Giữ đạo hình thức - cảm giác
Tuy
nhiên, có những cá nhân lại để cho hình thức - cảm giác điều khiến đời
sống đức tin của họ, nghĩa là khi cảm thấy vui, thích thú thì họ đến nhà
thờ đọc kinh, cầu nguyện, dự lễ. Họ là loại người nhanh chân tìm đến
những nơi mà người ta cho rằng có hiện tượng lạ về đạo giáo xảy ra. Họ
đi đến những đám tụ tập hay họp mặt về tôn giáo là nơi họ có thể bày tỏ
cảm giác bằng cách khóc lóc thảm thiết, hay nắm tay hoặc ôm nhau để được
nâng đỡ về phương diện tình cảm.
Khi ước muốn có cảm giác mà
không được toại nguyện, họ đổ lỗi cho đạo giáo vì đã không cung ứng cho
họ cảm giác. Và họ đòi Chúa làm phép lạ cho họ tin, trước khi họ đặt tin
tưởng. Ước mong quá nhiều cảm giác đạo giáo, hay tuỳ thuộc quá nhiều
vào cảm giác đạo giáo là dấu hiệu chưa trưởng thành về đời sống đức tin.
Lại
có những cá nhân cũng như dân tộc do tâm tính hay do ảnh hưởng từ ngoài
vào lại ưa giữ đạo hình thức bề ngoài. Họ có khuynh hướng hay hỏi như
là lễ hôm nay có gì đặc biệt không? Có giám mục hay linh mục khách nào
về dâng lễ không? Có ca đoàn hát lễ không? Có rước sách không? Có dâng
hoa không? Có kèn trống không? Có ngắm đứng không? Nếu không, thì họ ở
nhà, không đi nhà thờ.
Nói đến ngắm đứng thì người viết không có
ý tẩy chay việc ngắm đứng đâu. Tuy nhiên, đi nghe ngắm đứng, ngắm Mười
Lăm Sự Thương Khó Chúa, hoặc ngắm Dấu Đanh, không phải để nghe xem ai
ngắm giọng Bắc, ai ngắm giọng Trung, ai ngắm giọng Nam, ai ngâm cung
triều, ai ngâm cung dòng, ai ngắm hay hơn ai..., nhưng là để suy niệm về
việc Chúa chịu nạn chịu chết vì tội lỗi loài người. Việc suy niệm về
cuộc khải hoàn của Chúa vào thành Giêrusalem, về cuộc khổ nạn của Chúa
trong Vườn cây dầu, về cuộc khổ hình thập giá chỉ mang lại ý nghĩa, nếu
người ta biết đem ra áp dụng vào đời sống. Nếu thiếu lòng mến và những
yêu tố nội tâm thúc đẩy khi làm việc đạo, thì người tín hữu cần nghe lời
Đức Giêsu cảnh giác nhóm người Pharisêu về tính giả hình (x. Mt 23,28;
Lc 12,1) và lòng đạo đức giả của họ (x. Mt 7,21).
Khuynh hướng ưa
tổ chức mừng kỷ niệm dịp nọ kia cho lớn và rùm beng có thể là do mặc
cảm: không có thực lực nên muốn bày ra cho có, hoặc mặc cảm 'dân nghèo
học làm sang'... Khuynh hướng ưa tổ chức nhấn mạnh đến những hình thức
bên ngoài cũng có thể do ảnh hưởng từ ngoài vào - từ một quốc gia nào đó
- được giới thiệu vào bản xứ. Chẳng hạn những cách biểu lộ lòng đạo đức
bằng việc rước sách, kèn trống, những màn 'bắt quân dữ' trong Tuần
Thánh tại một số giáo phận ở miền Bắc Việt, tại Phi Luật Tân và Trung
Nam Mỹ, thì cũng là do ảnh hưởng của những nhà truyền giáo từ một quốc
gia kia đem đến.
Vào dịp tổ chức mừng Đại Lễ 1.000 năm Thăng Long
- Hà Nội, từ ngày 1 đến 10-10-2010, báo chí trong nước gồm Báo Lao Động
(số ra ngày 14-10-2010), báo Công An Nhân Dân (xuất bản 16-10-2010),
cũng như ngoài nước và giới blogger đưa ra những nhận xét được tóm gọn
bằng những từ ngữ tựu trung như: phô trương, tốn kém, lãng phí, loè
loẹt, vụng về, lai căng 'Tàu', kéo dài quá đến cả 10 ngày là không thiết
thực, không nhắm đến thực tại của cuộc sống người dân nhất là ở miền
quê vẫn còn nghèo đói. Trong những ngày Đại Lễ thì mưa lũ lụt tại một số
tỉnh miền bắc Trung Phần, gây tử vong cho gần trăm sinh mạng, cuốn đi
hàng trăm túp nhà tranh vách đất khiến người dân phải đói rét, chống
chọi với lũ lụt, lo sợ cho mạng sống. Có những nạn nhân đứng trên mái
nhà hay luồn tay ra khỏi mái kêu cầu được cứu trợ mà chương trình tổ
chức vẫn tiếp diễn như không có gì xảy ra, chỉ giảm phần đốt pháo bông
vào ngày cuối cùng. Có nhà báo nhắc lại kiểu nói của báo chí về việc phô
trương là do kết quả của: 'Văn hoá lùn, nên cái gì cũng phải muốn thật
to, thật hoành tráng, thật xa xỉ, thật nhiều theo kiểu có bao nhiêu thì
phô ra bằng hết'.
Rồi đến việc tổ chức Đại hội Dân Chúa 2010, từ
ngày 21 đến 25-11-2010, mừng Năm Thánh 2010, kỷ niệm 350 năm thiết lập
hai Giáo phận Đàng Trong và Đàng Ngoài tại Việt Nam năm 1659 và 50 năm
thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam năm 1960, diễn ra có vẻ lớp lang thứ
tự theo sát chương trình. Tuy nhiên, cũng không thiếu lời phê bình như
'ồn ào', đại diện giáo dân thì quá khiêm tốn và những đề tài tham luận
lại do đa số hàng giáo phẩm trình bày để học hỏi thì có vẻ cao siêu, xa
vời, không thiết thực với giáo dân. Rồi chương trình văn nghệ không phải
loại bỏ túi để giải lao cho khoan giãn sau hàng giờ ngồi nghe thuyết
trình/tường trình, mà lại dành nhiều giờ tập dượt với những màn hoá
trang phải mua sắm và có sửa soạn trước.
Còn chương trình Đại lễ
Bế mạc Năm Thánh tại La Vang, từ ngày 4 đến 6-1-2011, thì lại nhấn mạnh
đến hình thức trình diễn, phô trương. Phải chăng kiểu nói 'văn hoá lùn'
mà báo chí bàn đến trong việc tổ chức Ngàn Năm Thăng Long cũng đã được
áp dụng trong việc tổ chức mừng Năm Thánh 2010 tại đây? Người đến dự và
người xem Đại hội Dân Chúa cũng như Đại lễ Bế mạc Năm Thánh trên mạng
thấy có vẻ hoành tráng, đẹp mắt, vui tai. Tuy nhiên, người ta cũng thấy
có vẻ chú tâm đến việc săn đón, chăm sóc thượng khách đạo đời. Chẳng hạn
việc tặng hoa cho thượng khách mà để cho mấy bé gái tặng thì người được
tặng hoa cũng thích khi thấy những vẻ đơn sơ, hồn nhiên, dễ thương của
các em, thay vì để cho người lớn tặng hoa người lớn cùng phái. Việc nhấn
mạnh đến hình thức trình diễn bề ngoài chỉ làm lu mờ những cố gắng kiến
tạo và giúp cảm nghiệm bầu khí linh thiêng. Còn chính chương trình Đại
Lễ xem ra thiếu yếu tố chinh phục lòng người, không biết có đánh động
được tâm hồn và thay đổi được tâm trạng và đời sống nội tâm của người
giáo dân tham dự không? Nếu không thì có phải chương trình Đại Lễ nhấn
mạnh đến hình thức trình diễn và những mâu thuẫn trong lời giảng dạy và
cách sống đạo của người giảng và việc đón tiếp cũng như nơi ăn chốn ở
tại La Vang trong mấy ngày Đại Lễ quá khác biệt giữa giáo dân và hàng
giáo sĩ-phẩm chăng? Một linh mục VN có cách truyền giáo bình dân được
người ngoài Công giáo gọi một cách thân tình là 'Anh Tám' H. Trong một
bài giảng Chúa Nhật, Anh Tám H. gọi việc phô trương về đạo là 'khoe'
đạo. Theo nhận xét của Anh Tám linh mục thì việc khoe đạo chỉ làm cho
người ngoài đạo 'ghét' đạo mà thôi [3].
Làm sao tránh việc giữ đạo tại tâm - khép kín?
Phần
này được tóm gọn vì không phải là phần chính của bài viết. Đây phải là
một tiến trình dạy giáo lý lâu dài trong gia đình, giáo xứ và học đường.
Trong những giờ huấn đức hay dạy giáo lý nên đưa ra những ví dụ cụ thể
như nói: Trong gia đình, khi có tiệc mừng những ngày kỷ niệm hôn nhân
của bố mẹ, mừng ngày Tết, ngày sinh nhật của mỗi thành phần trong gia
đình, thì bố mẹ mong muốn con cháu tham dự để chúc mừng, để chia vui và
để gắn bó tình nghĩa gia đình. Trong bữa tiệc lễ ngày Chúa Nhật cũng
vậy, người tín hữu cần hiện diện để thờ phượng Chúa cách công cộng để có
thể chia sẻ niềm tin. Nếu một người chủ trương giữ đạo tại tâm ở nhà
thì người khác không thấy gương sống đức tin của họ mà noi theo. Giáo xứ
cần tổ chức những buổi học hỏi để giúp giáo dân hiểu tại sao cần đến
nhà thờ để cầu nguyện và thờ phượng hầu hoàn thành bổn phận người con
thảo và để làm chứng cho đức tin mà họ đã lãnh nhận theo Lời Chúa dạy:
'Anh em đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy' (Mt 10,8).
Làm sao để tránh việc giữ đạo hình thức - cảm giác?
Phần
này cũng được tóm gọn vì không phải là phần chính. Ở đây cần bắt đầu
khi con cháu Rước Lễ lần đầu, tới khi chịu phép Thêm Sức, cưới hỏi, phụ
huynh cũng như giảng viên giáo lý và giáo sĩ cần dạy con em biết cầu
nguyện riêng tư trong tâm hồn thay vì chỉ học thuộc lòng, bằng những lời
cảm tạ, xin lỗi chứ không phải chỉ biết xin xỏ mà thôi. Rồi cần giúp
con em sửa soạn tâm hồn bên trong chứ không phải chỉ để ý sắm quần áo,
mua bông hoa để tạo ra hiện tượng pháo bông trong việc ăn mừng và chụp
thật nhiều hình kỷ niệm. Đốt pháo bông trông thì đẹp nhưng lại rất mau
tàn. Do đó mà con cháu không ghi được ấn tượng thiêng liêng nào vì không
cảm nghiệm được niềm tin tôn giáo khi lãnh nhận một bí tích. Không có
cảm nghiệm tôn giáo khi lãnh nhận một bí tích, thì khi xem hình chụp
cũng chỉ thấy vậy thôi, nghĩa là có thấy hình chụp mà không ghi nhớ được
ấn tượng thiêng liêng. Hình chụp chỉ giúp hồi tưởng lại kỷ niệm ngày
lãnh nhận một bí tích. Còn kinh nghiệm tôn giáo và ấn tượng thiêng liêng
mới kéo dài và giúp cho con tim được vui mừng và hứng khởi trong việc
sống đức tin. Và khi có cảm nghiệm về niềm tin tôn giáo rồi thì người ta
không cần đặt nặng phần hình thức và đi tìm cảm giác.
Khi tổ
chức mừng kỷ niệm ngân khánh, kim khánh hàng giáo sĩ-phẩm hay kỷ niệm
hôn nhân, khi tổ chức nghị hội, lễ hội, đại hội, ban tổ chức cần đem ý
nghĩa vào mỗi tác động của việc tổ chức ngõ hầu giúp người tham dự tìm
ra ý nghĩa của mỗi tiết mục, mỗi tác động phụng vụ chứ không phải tổ
chức sao cho rầm rộ bên ngoài mà không gây được ấn tượng thiêng liêng
nơi người tham dự. Tổ chức đại hội, đại lễ cho có vẻ hoành tráng và rầm
rộ mà thiếu bầu khí linh thiêng và thiếu chiều sâu về đức tin, thì người
xem thấy có vẻ đẹp mắt. Và khi thấy người này, nhóm này tổ chức mừng lễ
kỷ niệm biến cố nọ kia thì người khác, nhóm khác cũng muốn tổ chức và
muốn tổ chức mừng lớn hơn và rầm rộ hơn. Tuy nhiên, muốn đánh động tâm
hồn và muốn thay đổi cuộc sống, cần làm sao cho người ta thấy những
chứng nhân như là những gương sống đức tin, gương hy sinh, bác ái, vị
tha trong đời sống thường ngày - không nhất thiết phải là những gương
anh hùng vĩ đại - nhưng là những gương sống đạo của đời thường như là
ánh sáng và muối đất mà Phúc Âm nói đến (x. Mt 5,13-14). Nếu không thì
những màn trình diễn trong việc tổ chức có thể chỉ là phản chứng và
những bài thuyết trình nặng phần lý thuyết suông mà thiếu yếu tố làm
chứng để chinh phục lòng người, thì người xem và nghe cũng chỉ nghe và
thấy vậy thôi.
-------------------------
[1]. Liturgical Commission, Diocese of Lansing, Lansing, Michigan. Oct. – Dec. 1977, tr. 313.
[2]. Như trên.
[3]. Bài giảng Chúa Nhật TGP/SG Tháng 10, 2011.
Lm. Trần Bình Trọng