(DIE GESCHICHTE DER KIRCHE IN 100
REPORTAGEN)
Tác giả: Josef Holzer
Người dịch:
Đinh Phan Cư, Phạm Hồng Lam
TRÌNH THUẬT 90
PIÔ IX CHỈ CÒN LÀ MỘT “GIÁO HOÀNG”
Sau khi thành phố Rôma và Quốc gia
Giáo Hội bị chiếm ngày 20-9-1870, Giáo hoàng Piô IX ẩn mình trong điện Vatican
và tự coi mình như một “tù nhân”. Mọi cố gắng thương thảo với vị “vua
mới của nước Ý” theo sự thúc dục của Hồng y Quốc vụ khanh Antonelli
đều bị Piô IX khăng khăng từ chối: “Non possumus”!
Không thể chờ được sự thay đổi ý kiến
về phía giáo hoàng, vì ngài cương quyết không chịu từ bỏ Quốc gia Giáo Hội,
vương triều Ý đại lợi ngày 13-5-1871 đã đưa ra một “Đạo luật bảo đảm” để
ấn định quyền hạn và vai trò của giáo hoàng. Qua luật đó, vua Viktor Emanuel,
người đã bị giáo hoàng dứt phép thông công, đề nghị giáo hoàng vẫn tiếp tục có
hoàn toàn chủ quyền, được trả tiền hưu bổng hằng năm, được tự do liên lạc với
các giám mục trên thế giới, tự do thi hành sứ vụ, tự do bổ nhiệm các giám mục ở
Ý, không buộc phải tuyên thệ trung thành trước chính phủ Ý, và ngoài ra điện
Vatican, điện Lateran và điện Castel Gandolfo sẽ là sở hữu của giáo hoàng.
Hai ngày sau, Piô IX bác bỏ đề nghị
đó. Vì vậy, “vấn đề Rôma” vẫn bế tắc cho mãi tới khi có hiệp ước Lateran được
ký kết giữa Piô XI và Mussolini vào năm 1929.
Để làm ra vẻ không
công nhận chính phủ mới, năm 1874 Giáo hoàng Piô IX ký sắc lệnh “Non expedit” cấm tất cả tín hữu
Công giáo Ý tham gia bầu cử chính trị. Lệnh này có hiệu lực mãi đến năm 1905.
Hậu quả không lường của lệnh đó là đã giúp cho các phần tử chống Giáo Hội chiếm
được đa số trong quốc hội Ý một cách dễ dàng.
Kể từ đây, Quốc gia Giáo Hội chấm
dứt. Piô IX đã cố tìm mọi cách để bảo vệ uy quyền đời của mình. Nhưng ý Chúa
lại “khôn ngoan” hơn, vì rồi ra sẽ thấy, uy quyền đó thật ra chỉ là một gánh
nặng vô ích, càng ngày càng trở nên quá tải cho giáo hoàng và Giáo Hội và là
đầu mối bất hoà giữa các thế lực. Cuối cùng, giáo hoàng không là một ông hoàng
trần thế nữa mà chỉ còn là một “giáo hoàng thuần tuý”, chỉ còn là vị lãnh đạo
tinh thần của Giáo Hội. Đã qua rồi cái thời mà người ta vẫn cho rằng uy quyền
và tự do của giáo hoàng chỉ có được bằng cách liên minh với một thế lực trần thế
lớn mạnh. Cái lo ngại của Piô IX cũng không xảy ra. Ngài sợ nếu mất vương quyền
đời thì sẽ bị lệ thuộc nước Ý. Trái lại, việc giải tán Quốc gia Giáo Hội đã
mang lại cho giáo hoàng một thứ uy quyền tinh thần, như hiện nay ta đang thấy.
Syllabus phê phán những sai trái của
thời đại
“Syllabus errorum” (= Bản kê các sai
lầm) là một thí dụ về ảnh hưởng của tiếng nói giáo hoàng trên thế giới. Nội dung
Syllabus chỉ là nhắc lại những điểm mà Giáo Hội đã kết án trước đây. Đây là một
bản văn đính kèm với tông thư “Quanta cura”, công bố năm 1864 và được gửi tới tất
cả các giám mục. Bản văn đề cập tới 80 điểm sai lầm của thời đại, như thuyết
phiếm thần (Pantheismus: coi Thượng đế đồng nhất với thiên nhiên), thuyết dửng dưng coi tất cả các tôn giáo đều có giá trị
như nhau, chủ nghiã xã hội và chủ nghiã cộng sản vì hai thuyết này chối bỏ
quyền tư hữu và đặt gia đình lệ thuộc vào nhà nước - Bản Tuyên ngôn Cộng sản
xuất hiện năm 1848 - chủ nghĩa tự nhiên cổ xuý cho việc loại tôn giáo ra khỏi
xã hội, chủ nghiã duy lý và đặc biệt là chủ nghiã tự do (Liberalismus) chủ trương
đưa “khoa học và tự do lên thành một thứ tôn giáo”. Nơi đâu những người theo
chủ nghĩa tự do nắm quyền, ở đó họ lập tức đưa ra những đạo luật thù nghịch với
Giáo Hội.
Một số điểm trước đây bị “Syllabus”
kết án, nay rõ ràng phải được xét lại, chẳng hạn như những điểm kết án sau đây:
“Mỗi người được tự do chọn lựa cho mình một tôn giáo nào mà lý trí mình cho
là đúng”. Hoặc “Qua tôn giáo mình, con người có thể tìm thấy cho mình
con đường nên thánh và sự cứu độ đời đời”. Hoặc “Nghiên cứu triết học
không cần phải quan tâm tới mạc khải”.
Nhà giáo sử Seppelt đã viết từ năm
1933 rằng “chỉ có thể giải thích đúng được các đoạn văn này khi người ta
hiểu được ý hướng của những người viết ra chúng và hiểu được đâu là ý nghĩa phê
phán của giáo hoàng. Hơn nữa, cần phải hiểu rằng đây chỉ là những nguyên tắc cơ
bản được nêu lên bằng một lối nói thật mạnh nhằm gây chú ý nhiều hơn”. Syllabus
xuất hiện trong lúc Giáo Hội bị tấn công từ mọi phiá, cho nên phải hiểu nó
là một lối “tự vệ” của giáo hoàng. Dù vậy, có những phê phán trong Syllabus tới nay vẫn còn giá trị.
Phê phán đúng
Có thể kể ra đây ít điều tiêu biểu mà
Piô IX đã phê phán đúng:
Lý trí con người, tự bản chất, là quy
luật và tự nó có đủ khả năng tạo hạnh phúc cho con người và các dân tộc...
Đức tin ki tô giáo mâu thuẫn với lý trí
con người, mạc khải của Thiên Chúa làm thương tổn sự phát triển toàn diện của
con người...
Những lời tiên tri và phép lạ trong
Sách Thánh chỉ là tưởng tượng của các thi sĩ. Chính Chúa Kitô cũng là một nhân vật
giả tưởng...
Các sắc lệnh Toà Thánh cản trở đà
tiến bộ tự do của khoa học...
Giáo Hội chỉ được hành xử quyền của
mình khi được phép và đồng ý của nhà nước...
Giáo Hội tự nó không có quyền chiếm hữu
và tư hữu...
Mọi quyền hành xuất phát từ nhà nước
và nhà nước có quyền hành vô hạn...
Giáo huấn Giáo hội Công giáo đi ngược
với hạnh phúc và ưu điểm của xã hội con người...
Nhà nước có quyền can thiệp vào
chuyện tôn giáo, đạo đức và giáo sĩ. Nhà nước có thể quyết định ngay cả về việc
quản trị các phép bí tích...
Nhà nước có thể và phải nắm quyền
lãnh đạo các trường công lập...
Nhà nước có thể ngăn cấm các giám mục
và giáo dân không được tự do liên lạc và trao đổi với giáo hoàng Rôma...
Chính quyền dân sự có quyền cấm các
giám mục thi hành nhiệm vụ...
Chính quyền nhà nước có thể giúp đỡ
cho tất cả những ai muốn hồi tục hoặc rút lại lời thề...
Không chấp nhận một lực nào khác
ngoài lực sẵn có trong chính vật chất đó...
Uy quyền chẳng gì khác hơn là tổng hợp
các lực vật chất...
Từ bỏ một lời tuyên hứa dù lành thánh
hoặc một hành động tội phạm dù xấu xa chừng nào chăng nữa cũng không đáng kết
án, chuyện đó được phép và ngay cả được khuyến khích, nếu như người ta làm vì lòng yêu
nước...
Hậu quả ghê gớm
Đạo binh của giáo hoàng chẳng thế lực
nào còn coi ra gì. Nhưng, với một lá thư luân lưu, Giáo hoàng đã làm cả thế giới
rúng động. Lá thư khiến sự đối địch giữa tín hữu Công giáo và Tin lành ở Hòa Lan
trở nên gay gắt. Ở Pháp, những người theo thuyết tự do phản đối mấy tuần liền
và cấm phổ biến “Syllabus”. Chính quyền Nga và Ý từ chối không cho ấn hành
bản văn. Giáo hoàng bị nhạo cười ở Anh. Người đức lấy làm tiếc về chuyện “trật
đường rầy” của Giáo hoàng. Nhà cầm quyền Áo thì sợ giới giáo sĩ được thế
đòi thêm trong việc thi hành thỏa ước vừa mới ký với giáo hoàng. Nói chung,
những người theo thuyết tự do đánh giá tài liệu này là lạc hậu, phản tiến bộ,
phản văn hoá, là một lời “tuyên chiến” với nền văn hoá mới và với các quốc gia
tân tiến.
Piô IX cương quyết chống lại thuyết
tự do đương thời, coi nó như là “một sai lầm của thế kỷ”. Ngài đã một
lần lên án cái gọi là “chủ nghiã tự do Công giáo” như sau: “Chủ nghĩa tự do Công
giáo là một thứ chân trong chân ngoài, một chân theo Giáo Hội, một chân theo
tinh thần buông thả của thời đại. Một chân theo Ta, một chân theo bọn thù nghịch.
Chân này theo chân lý, chân kia theo lầm lạc”. Tất cả mong ước của Piô IX
là làm sao có được những thứ “hiệp sĩ tuyệt hảo”, chưa bị tiêm nhiễm một chút
gì nếp sống buông thả của thời đại. Piô IX tuy không kết án những người công
giáo theo thuyết tự do, nhưng dưới mắt ngài, họ tất cả đều là những kẻ đáng
ngại.
Một tín điều mới
Syllabus không được ban ra từ “ngai toà” (ex
cathedra), nên không phải là không sai lầm, không buộc phải tin. Giáo huấn Đức Mẹ
vô nhiễm nguyên tội, ban hành ngày 8-12-1854, trái lại, là một tín điều “ngai
toà”, buộc phải tin.
“Đây là một chân lý đức tin được Chúa
mạc khải, là Maria ngay từ giây phút đầu thai - nhờ một hồng ân đặc biệt và nhờ công nghiệp Đức
Kitô - đã được Chúa giữ gìn khỏi mọi tì ố tội nguyên”.
Nhiệm vụ quyết định của giáo hoàng
khi muốn đưa một giáo huấn lên thành tín điều là xét xem giáo huấn đó có phải
là một “chân lý đức tin được Chúa mạc khải” hay không hay giáo huấn đó
đã có trong mạc khải (qua Sách Thánh hoặc truyền thống) hay không. Ngay chính giáo
hoàng cũng không thể “sáng chế” ra một tín điều mới, nên tín điều Mẹ vô nhiễm
cũng chẳng phải là một chuyện gì mới lạ, vì truyền thống mừng lễ này đã có
trong Giáo hội Đông và Tây phương cả ngàn năm nay rồi.
Việc loan báo tín điều Mẹ vô nhiễm
vào thời điểm đó còn muốn chứng tỏ quyền năng của một giáo hoàng, một mình ngài
có thể ra quyết định tối hậu cho toàn thế giới công giáo về những gì liên quan
tới đức tin hoặc luân lý mà không cần phải có sự đồng ý của công đồng. Vấn đề “không
sai lầm” của giáo hoàng đã là đề tài quan trọng nhất của Công đồng Vatican I.
TRÌNH THUẬT 91
“HOAN HÔ GIÁO HOÀNG KHÔNG SAI
LẦM!”
“Tuyệt diệu, không thể tả được”, đó là cảm tưởng của Giám mục
Ullathorne, Giáo phận Birmingham (Anh), về buổi lễ khai mạc Công đồng Vatican I
ngày 8-12-1869. Cánh phải Nhà thờ Thánh Phêrô ở Rôma được biến thành chỗ họp
công đồng. Các nghị phụ ngồi 8 hàng theo thang cấp, mặc áo choàng kim tuyến lấp
lánh và đội mão giám mục màu trắng. Giám mục kể tiếp: “Cả thế giới chưa từng
thấy một hội nghị đông đảo các đấng bậc cao dày học vấn và kinh nghiệm như thế”.
Có 774 giám mục
trong tổng số khoảng 1.050 giám mục trên toàn thế giới về Rôma dự công đồng.
Nhờ có xe lửa và tàu thuỷ chạy bằng hơi nước mà nhiều giám mục ở các địa phương
xa xôi lần đầu tiên đã đến được Rôma. Hội trường muôn màu muôn vẻ: 146 giám mục
từ các nước Ănglô Xắc xông, 30 vị đến từ Trung và Nam Mỹ, 49 vị từ Hoa Kỳ, 50
vị từ châu Úc, 41 vị từ Ấn Độ và Viễn Đông, 9 vị từ Phi châu. Các nghị phụ
người Ý chiếm 35%. Năm vị chủ tịch tiểu ban, tất cả các thư ký, 2/3 cố vấn và
chuyên viên công đồng đều là người Ý. Chức vụ tổng thư ký công đồng do một
người nước ngoài đảm trách, đó là Giám mục Joseph Feßler, Giáo phận St. Poelten
(Áo).
Đúng lúc cần có công đồng
Ngày 6-12-1864, hai ngày trước khi
phổ biến “Syllabus”, Piô IX lần đầu tiên hỏi riêng một số hồng y đang
hiện diện ở Rôma về ý định triệu tập công đồng. Các hồng y tán thành ý định
này, bởi vì từ Công đồng Trento đến nay đã hơn 300 năm rồi. Ngoài ra cũng còn
nhiều lý do quan trọng nữa cho thấy nhu cầu cần có một công đồng mới. Hồng y
tổng trưởng người Đức Reisach muốn có công đồng mới để giải quyết những tồn đọng
do phong trào cải cách tạo ra, bởi vì theo ông, Công đồng Trento đã chưa dứt khoát
trong việc phản bác các sai lầm căn bản của cải cách, cụ thể là việc họ chối bỏ
phẩm trật trong Giáo Hội và quyền giáo huấn không sai lầm của giáo hoàng. Cũng
nên nhớ rằng, với các “Điều khoản” tự do năm 1682, Giáo hội Pháp vẫn còn đang sống trong tâm trạng
đề cao công đồng, nghĩa là họ cho rằng mọi quyết định của giáo hoàng chỉ thực
sự không sai lầm sau khi đã được công đồng biểu quyết. Ở Đức, tâm tình đó đã
được thể hiện qua chủ trương của Giám mục Phụ tá Giáo phận Trier là Hontheim (“Febronius”),
vị này cho rằng ưu quyền của Giáo hoàng Rôma chỉ có tính cách danh dự, trên
thực tế ngài không hơn gì các giám mục khác. Đề tài tranh cãi về vị thế của giáo
hoàng này, được nêu lên lần đầu tiên do Marsilius Padua, phải có một trả lời và
quyết định dứt khoát.
Đắn đo và do dự
Piô IX đã đắn đo rất lâu trước khi
quyết định triệu tập công đồng. Mãi cho đến ngày 26-6-1867, trong dịp có khoảng
500 giám mục trên thế giới về Rôma dự lễ giỗ 1800 năm hai Thánh Tông đồ Phêrô
và Phaolô, ngài mới công khai hoá ý định. Một năm sau, ngài ra tông thư công bố
chính thức công đồng sẽ khai mạc ngày 8-12-1869.
Các nhà cầm quyền
châu Âu hồi hộp hướng nhìn về Rôma. Thủ tướng Bayern (Đức) là ông hoàng Hohenlohe
lưu ý công đồng chớ nên quyết định về chuyện “không sai lầm của giáo hoàng”,
bởi vì theo ông, một quyết định như thế sẽ có ảnh hưởng lớn đến tình hình chính
trị các quốc gia. Đồng thời ông yêu cầu các nhà cầm quyền khác nên chung tay
hành động để ngăn chặn Công đồng về điểm này. Kế hoạch của ông thất bại, vì
nước Áo và nuớc Phổ chần chờ không muốn tham gia.
Trước khi họp đã có hai phe
Trước khi công đồng khởi sự, đã có
hai phe. Một phe ủng hộ chuyện “không sai lầm”, lo gom góp chữ kí để xin giáo hoàng
đưa vấn đề vào chương trình nghị sự của công đồng. Nhóm này vận động được 380
chữ ký. Nhóm chống đối chỉ có 140 chữ ký. Lãnh đạo nhóm ủng hộ là Hồng y
Manning, Giáo phận Westminster. Các vị ở nhóm chống đối phần lớn là người Pháp,
người Đức (Hefele, Ketteler) và người Áo (Rauscher, Schwarzenberg).
Phần nhiều các vị chống đối không hẳn
chối bỏ việc không sai lầm của giáo hoàng, song họ cho rằng chưa đúng lúc để
đưa vấn đề này ra. Một số người khác ngại rằng một khi đã có tín điều “không
sai lầm” thì giám mục đoàn chỉ còn là một cơ quan thi hành lệnh của giáo hoàng.
Một số khác lại sợ có sự lạm dụng, khi cho “giáo hoàng quyền không sai lầm
trong lĩnh vực đức tin thì cũng có nghĩa là người ta cho ngài sử dụng quyền này
trong các lãnh vực khác” (Leroy Beaulieu). Lại có kẻ bảo rằng Giáo Hội đang
trên đường dân chủ hoá; hướng tiến này còn có ai tin nữa khi Giáo Hội trong lúc
đó lại cứ tiếp tục củng cố hình thái quân chủ. Đó là chưa nói đến các nỗ lực
đại kết có thể sẽ bị đình trệ. Thực tế cho thấy là những lo âu kia đã không có
căn cứ.
Những người ủng hộ thì bảo Sách Thánh
và truyền thống Giáo Hội cho thấy việc không sai lầm của giáo hoàng có căn bản
trên sự mặc khải của Thiên chúa. Như đã nói trên, khi đưa một giáo huấn thành
tín điều, người ta chỉ làm chuyện duy nhất là xét xem giáo huấn đó có do “Chúa
mạc khải” hay không, chứ người ta không "làm" cho giáo hoàng trở
thành "không sai lầm". Câu Sách Thánh sau đây được phe ủng hộ đưa ra
để chứng minh cho quan điểm mình: “Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh (Phêrô)
để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã tìm thấy lại niềm tin, thì hãy
làm cho các anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22,2). Vì thế, chỉ còn phải
bàn xem giáo hoàng không sai lầm trong lãnh vực nào và trong những điều kiện
nào mà thôi. Ngoài ra, cũng cần phải bàn xem tương quan giữa quyền không sai
lầm của giáo hoàng và giám mục đoàn như thế nào, nghĩa là có phải giáo hoàng
hoàn toàn không chịu sự kiểm soát của đoàn giám mục và giáo huấn của ngài chẳng
cần phải được sự chấp thuận của công đồng hay không.
“Tự thân” không sai lầm
Cuộc góp ý khởi sự ngày 9-5-1870. Có
tất cả 140 bài góp ý dài liên quan đến đề tài không sai lầm của giáo hoàng.
Cuộc biểu quyết sơ khởi diễn ra ngày 13.07 với 451 phiếu thuận, 88 phiếu chống,
62 phiếu thuận với điều kiện. Nội dung bản dự thảo như sau:
“Với sự đồng ý của thánh Công đồng Ta
dạy và truyền đây là một tín điều được Chúa mạc khải, là khi Giáo hoàng Rôma
phát biểu từ ngai toà (ex cathedra), nghiã là khi ngài nhờ năng quyền tông đồ
tối cao nhân danh vai trò chủ chăn và thầy của toàn thể tín hữu Công giáo quyết
định một điều gì về đức tin hay luân lý buộc cả Giáo Hội phải tin, thì, nhờ sự
trợ giúp của Chúa, như Ngài đã hứa qua Thánh Phêrô trước đây, ngài không thể
sai lầm. Chúa Cứu
Thế đã muốn ban cho Giáo hội khả năng không sai lầm đó trong việc quyết định
những gì thuộc đức tin hoặc luân lý. Và các quyết định đó của giáo hoàng Rôma
tự nó, không cần thông qua sự đồng thuận của Giáo Hội, sẽ không còn thay đổi
được nữa”.
Ngày 15-7, những nghị phụ chống đối
(giám mục các giáo phận Paris, Muenchen, Mainz) xin giáo hoàng gạch bỏ mấy chữ
cuối: “không cần thông qua sự đồng thuận của Giáo Hội”. Giáo hoàng cự tuyệt.
Vì thế, 60 giám mục, với sự đồng ý của giáo hoàng, rời khỏi kinh thành Rôma, để
khỏi phải bỏ phiếu “chống”. Nhờ thế mới có được đa số tuyệt đối cho tín điều
không sai lầm của giáo hoàng: 533 nghị phụ đồng ý, chỉ có 2 phiếu chống.
Tường thuật của một chứng nhân
Thomas Moszley, tu sĩ Anh giáo tường
thuật trên báo “The Times” ở Luân Đôn về cuộc biểu quyết ngày 18-7-1870
như sau:
“Những người bạn của đức Thánh Cha kể
cho tôi là ngài xúc động khi bước vào giáo đường. Lúc qùy gối cầu nguyện ngài
hơi run.
Rồi mọi sự cũng qua đi. Thánh lễ ngắn
gọn. Bài quốc ca của Giáo hội công giáo trổi lên, chưa bao giờ người ta hát
hùng hồn như thế. Tiếp theo là giây lát thinh lặng. Rồi tổng thư ký công đồng
(Feßler) với một giọng lanh lảnh đọc bản tín điều. Sau đó xướng danh các nghị phụ.
Những tiếng đồng ý tiếp nối đồng ý... Bỗng một tiếng sét phá vỡ không khí biểu quyết.
Cơn mưa bão đe doạ từ sáng sớm bây giờ mới nổi lên dữ dội. Các nghị phụ phải
thi nhau la to “đồng ý” với mưa bão sấm chớp rền vang. Tôi chưa bao giờ thấy
một cảnh tượng như thế kéo dài gần một tiếng rưỡi đồng hồ. Những ai đã xem, đã
chứng kiến tận mắt cảnh công bố tín điều này sẽ không bao giờ quên được...
Cơn mưa bão trở nên dữ dội nhất khi
kết quả cuộc biểu quyết được đệ trình cho giáo hoàng. Trời tối đen kịt. Người
ta phải mang tới một ngọn đèn lớn để ngài đọc những lời quyền năng được Chúa
ban cho ngài. (“Với sự đồng ý của thánh Công đồng, Ta tuyên bố những gì vừa đọc
lên là chung quyết và Ta khẳng định điều đó bởi uy quyền tông đồ của Ta”).
Lúc này tôi đang đứng ở cánh nam nhà
thờ, cố lần mò trong bóng tối tiến về phía giáo hoàng. Những tiếng động dữ dội
vang ra từ phòng hội khiến tôi nhảy lên ngó trước nhìn sau, nhìn ngang nhìn
ngửa. Tiếng động càng lúc càng lớn dần. Rồi màn bí mật bỗng mở ra, khi tôi thấy
cả một rừng khăn tay trắng đang nhảy múa trước mắt. Các nghị phụ vỗ tay vui mừng.
Đám đông đứng ngoài phòng hội cũng vỗ theo. Tiếng động dữ dội vang tới chỗ tôi
đứng: “Hoan hô giáo hoàng không sai lầm! Hoan hô chiến thắng của người công
giáo!” Mọi người đều quỳ gối, một đám đông tôi chưa từng thấy trong Nhà thờ Thánh
Phêrô. Và giáo hoàng ban phép lành cho họ, giọng ngài rõ ràng, êm dịu, có thể
nhận ra ngay giữa muôn ngàn giọng khác...”.
Còn tiếp