(DIE GESCHICHTE DER KIRCHE IN 100
REPORTAGEN)
Tác giả: Josef Holzer
Người dịch:
Đinh Phan Cư, Phạm Hồng Lam
TRÌNH
THUẬT 98
GIOAN XXIII KHAI MẠC CÔNG ĐỒNG VATICAN II
Khi đoàn rước xem ra dài vô tận từ
trong điện Vatican tiến ra giữa Công trường Thánh Phêrô để từ đó tiến vào cửa
chính của vương cung thánh đường thì chuông của tất cả các nhà thờ trong thành phố
Rôma đổ liên hồi. Đi đầu cuộc rước là các thành viên trong Giáo triều Rôma
trong áo choàng phụng vụ, rồi đến các nghị phụ mặc lễ phục màu trắng gồm: bề
trên các dòng tu, giám mục, thượng phụ, sau cùng là các hồng y. Các hồng y thầy
sáu mặc áo ngắn màu tím. Các hồng y linh mục mặc áo lễ. Các hồng y giám mục mặc
áo choàng màu khói trắng. Sau cùng là Giáo hoàng Gioan XXIII ngồi trên kiệu.
Ngài cũng đội mão giám mục. Đến trước tiền đường Nhà thờ Thánh Phêrô, ngài
xuống kiệu, đi bộ vào vương cung thánh đường, nơi các nghị phụ đã an vị ngay
gian giữa thánh đường. Trước đây, 700 nghị phụ của Công đồng Vatican I (1870)
còn ngồi ở cánh phải nhà thờ. Cánh giữa nguyện đường lớn nhất thế giới này vừa
đủ chỗ cho gần 3.000 nghị phụ của lần họp thứ hai này. Quả là một kỷ lục trong
lịch sử các công đồng. Trong số 2.540 nghị phụ chính thức có khoảng 38% nghị phụ
thuộc châu Âu, 31% thuộc châu Mỹ, 20% thuộc Á và Úc châu, 10% thuộc châu Phi,
và khoảng một phần ba là các giám mục dòng.
Khoảng 12 giờ 30 ngày 11-10-1962,
Gioan XXIII đọc diễn văn khai mạc Công đồng chung lần thứ 21 của Giáo hội Công
giáo: “Hôm nay, Giáo Hội mẹ thánh hân hoan vui mừng vì nhờ thánh ý Chúa quan
phòng đặc biệt mà chúng ta có được ngày hằng mong đợi này”. Vị giáo hoàng
77 tuổi này nghĩ rằng chỉ trong vòng 3 tháng ngài có thể tuyên bố kết thúc Công
đồng.
Thời gian trôi quá nhanh!
Từ trước cho tới
thời Công đồng Chung Vatican I (1870), muốn tham dự Công đồng, các nghị phụ
phải đi bộ, đi ngựa hoặc bằng thuyền buồm. Trong thời trung cổ các ông cũng
không còn có những trạm liên lạc thư tín rải rác của đế quốc Rôma để dừng chân
nữa. Chính vì thế mà số người tham dự
công đồng trước đây tương đối ít. Đặc biệt các giám mục Bồ Đào Nha, Ái
Nhĩ Lan và giám mục ở bắc Âu rất khó tham dự công đồng.
Đường tới công đồng cũng không
phải là không nguy hiểm. Một chiếc thuyền chở các sứ thần của Byzantin tới dự Công
đồng Lyon II (Pháp) đã đụng vào mỏm phía nam của Hy Lạp, vỡ tan từng mảnh. Chỉ
có một hành khách trên thuyền sống sót. Martin Perez ở Ayala (Tây Ban Nha) cho
hay trên đường đi dự Công đồng Trento đã bị giữ lại trên đảo Ibiza 3 tuần để
tránh bọn cướp biển.
Để biết một cuộc hành trình đi đến
địa điểm tổ chức công đồng kéo dài bao lâu, chúng ta hãy lấy trường hợp của
Bartholomêô ở Martyribus làm điển hình. Ông khởi hành từ Braga (Bồ Đào Nha)
ngày 24-3-1561 mà mãi đến ngày 18-5-1561 mới tới được Trento. Và thời gian trở
về cũng phải ngót 2 tháng.
Tổn phí cho cuộc hành trình đi dự
công đồng cũng không phải ít. Đặc biệt là một gánh nặng cho các giám mục Ái Nhĩ
Lan trong lần đi dự Công đồng Lateran III ở Rôma. Cuộc sống hằng ngày ở nhà của
các vị chỉ dựa vào 3 con bò sữa.
Chỉ từ Công đồng Vatican I các
nghị phụ mới bắt đầu được sử dụng xe lửa và tàu chạy bằng hơi nước. Trước đây
thư mời dự công đồng cần cả tháng mới tới tay người nhận. Ngày nay chỉ cần 48
tiếng đồng hồ là các giám mục châu Phi, châu Úc, Nhật Bản đã nhận được thư mời.
Với phương tiện kĩ thuật ngày nay, công đồng có thể triệu tập và khai mạc trong
vòng một tuần lễ.
Một vị linh hướng trở thành giáo
hoàng
Piô XII từ trần ngày 9-10-1958.
Ngài là người bị nhiều dị nghị vì đã không công khai chống lại việc Hitler giết
người Do Thái. Ngày nay, chúng ta biết ngài không làm điều đó vì rằng sau khi
các giám mục Hà Lan lên tiếng phản đối thì bọn Quốc Xã lại càng truy nã mạnh
hơn. Nhưng Piô XII đã làm tất cả những gì có thể làm được trong quyền hạn của
ngài. Hơn 5.000 người Do Thái được che giấu trong các tu viện, trong các nhà
thờ Công giáo và ngay cả trong Vatican. Sau chiến tranh ngài lo lắng cho những
tù binh và những người mất tích. Cơ quan thông tin và tìm kiếm do ngài cho
thiết lập đã nhận được 11 triệu câu trả lời. Uỷ ban cứu trợ của giáo hoàng đã
góp phần xoa dịu nỗi thống khổ của dân châu Âu bằng việc gửi quà hàng cứu trợ.
Và sau chiến tranh các cường quốc thắng trận muốn đổ gán tội ác gây chiến lên
đầu cả dân Đức, nhưng Piô XII đã cực lực chống lại hình thức quy tội tập thể này.
Trong tâm trí mọi người Piô XII
được coi là một giáo hoàng điển hình: một quý tộc sang trọng, giàu kiến thức,
một nhà trí thức với nét mặt thoát tục và với dáng người tu hành khắc khổ. Cả
thế giới đều biết đến cung cách đặc biệt hay giang tay và ngước mắt lên trời
của ngài. Một sự kiện lại càng ngạc nhiên là ngày 28-10-1958, 51 vị hồng y hiện
diện đã bầu Hồng y Giuseppe Roncalli, Thượng phụ Giáo phận Venezia (Ý), lên kế
vị Piô XII với danh hiệu Gioan XXIII. Gioan XXIII là con trai của một gia đình
vùng núi nghèo, dáng người to béo, nhưng đơn sơ đạo đức. Kế tục một Piô “gầy
trơ xương” là một Gioan “núng nính” nặng nề. Người ta coi ngài chỉ là một “giáo
hoàng chuyển tiếp” trong lúc chờ đợi tìm ra một người tầm cỡ như Piô XII
khác.
Cuối thời Trung Cổ đã có một vị giáo
hoàng chọn danh hiệu Gioan XXIII, nhưng vị này đã bị Công đồng Konstanz năm
1415 cách chức. Hồng y Roncalli đã chọn danh hiệu này để loại bỏ tên vị giáo
hoàng không chính thức kia ra khỏi danh sách giáo hoàng.
Cánh cửa Giáo Hội rộng mở
Giáo hoàng Roncalli sinh ngày 25-11-1881
tại Sotto il Monte trong Giáo phận Bergamo. Ngài lớn lên trong một gia đình
nghèo có 13 người con, làm linh mục, giáo sư ở Chủng viện Bergamo, rồi tuyên úy
quân đội. Năm 1921, ngài về Rôma, được bổ nhiệm năm 1925 làm đại diện Toà Thánh
ở Sofia (Bungari) rồi sứ thần ở Thổ Nhĩ Kì, Hy Lạp, năm 1944 làm khâm sứ ở
Paris. Và cuối cùng năm 1953 làm Tổng Giám mục và Thượng phụ Giáo phận Venezia.
Dù ở trách vụ nào, ngài cũng không quên công tác linh hướng thực tế của mình.
Ngài là người am hiểu các mối âu lo và bức bách của “người bình dân”
trong Giáo Hội, đồng thời cũng rất am tường tình hình thế giới. Sứ vụ có tính cách
lịch sử của Piô XII là hướng dẫn Giáo Hội trong thời đệ nhị thế chiến, chống
lại chủ nghĩa Quốc xã và Cộng sản. Sứ vụ của Gioan XXIII là mở lớn cánh cửa
Giáo Hội. Một mặt để “không khí trong lành” tràn ngập Giáo Hội. Mặt khác
để có thể nhìn rõ hơn những nhu cầu cấp thiết của tha nhân. Chính Piô XII cũng
đã đặt vấn đề triệu tập công đồng, nhưng phải đợi một Gioan XXIII bản lãnh mới
dám triệu tập, bởi cho tới lúc đó ai cũng xem chuyện họp công đồng là điều đầy
rủi ro, bất trắc.
Chỉ là một hiểu lầm?
Triệu tập Công đồng Chung Vatican
II để đưa Giáo Hội vào một thời đại mới là một tin chấn động thế giới. Hồng y
Ottaviani và Tổng Giám mục Ruffini, Giáo phận Palermo, ngay sau cuộc bầu giáo
hoàng ít lâu đã xin Gioan XXIII triệu tập công đồng. Nhưng khi loan báo mở công
đồng Gioan XXIII cho hay đây là một “ơn Chuá ban”. Từ gần 100 năm nay đã
không có một công đồng nào. Rõ ràng con thuyền Giáo Hội thời gian qua đã được
lèo lái bởi nhiều vị giáo hoàng suất sắc. Phần Gioan XXIII, ngài coi trọng việc
cộng tác của các giám mục. Dù có quyền không sai lầm do Công đồng Vatican I
trao, ngài vẫn mời gọi giám mục đoàn cố vấn và muốn củng cố nguyên tắc làm việc
chung trở lại. Tóm lại, Gioan XXIII là một vị bình dân và được yêu mến nhất về
nhiều phương diện.
Vì Gioan XXIII loan báo về một
công đồng “hiệp nhất” (oekumenisch), cho nên nhiều người nghĩ đến “phong trào
hiệp nhất” và cho rằng đây sẽ là một công đồng có sự tham dự của nhiều nhánh
Kitô giáo với mục đích tái hiệp nhất với Chính thống và Tin lành. Hiểu lầm bắt
nguồn từ chữ “hiệp nhất”, là một từ ngữ quen dùng trong Giáo Hội. Thực
ra, đối với Giáo hội Công giáo, khi từ này đi chung với từ công đồng thì không
có nghĩa gì khác hơn là một “công đồng chung”, trong đó có sự tham dự của mọi
giám mục và nghị quyết của công đồng có giá trị cho toàn thể Giáo Hội.
Gioan XXIII là người đã gây ra
hiểu lầm này, khi vào ngày 30-1-1959, ngài đã nói trong một bài diễn văn không
soạn trước: “Chúng ta hãy tới với nhau. Hãy chấm dứt phân rẽ!”. Nhưng
cùng năm này, ngày 14-6, ngài xác định lại rõ hơn: Chỉ khi nào Giáo Hội nhận
biết mình rõ ràng hơn, thì lúc đó Giáo Hội mới có thể nói: Hãy đến với chúng
tôi! Theo ý ngài, việc đại kết với các Giáo Hội khác chỉ có thể thực hiện được
sau khi chính tự Giáo Hội đã thích nghi được với những yêu cầu của thời đại (“aggiornamento”).
Ngày 29-6-1959, ngài kể ra những mục tiêu cấp thiết nhất mà Giáo Hội phải làm
trước khi nói chuyện tái hiệp nhất, đó là phát huy đức tin Công giáo, canh tân
nếp sống đạo của các tín hữu và đưa Giáo Hội thích nghi với thời đại.
Việc chuẩn bị Công đồng Vatican II
khởi sự năm 1960, sau khi Hồng y Quốc vụ khanh Tardini ngày 25-10-1959 chính thức
cho báo chí biết không có dự tính mời các Giáo hội không phải là Công giáo. Đại
diện của 18 Giáo hội không Công giáo chỉ có tư cách người quan sát mà thôi.
Chuyện họ tới tham dự công đồng đã là một bước tiến trong nỗ lực đại kết của giáo
hoàng. Nhớ lại, Piô IX cũng gửi thư mời các Giáo hội không Công giáo dự Công đồng
Vatican I, nhưng tất cả đã từ chối thẳng thừng.
Ngày 11-10-1962, một tuần lễ trước
khi khai mạc Công đồng, Giáo hoàng Gioan XXIII đi hành hương Loretto và Assisi.
Đây là một việc làm trái với truyền thống xưa nay. Sau gần 100 năm lại có một giáo
hoàng bước chân ra khỏi Vatican và thành Rôma. Từ nay, khái niệm “tù nhân
trong Vatican” không còn nữa. Ngoài ra, cung cách cá nhân của vị giáo hoàng
này còn tỏ hiện qua các cuộc thăm viếng nhà thương, các viện mồ côi và các trại
tù trong thành phố Rôma.
Khoá họp đầu
tiên của công đồng kéo dài tới ngày 8-12-1962. Gần cuối khoá, Đức Thánh Cha bị
đau nặng. Ngài chỉ xuất hiện để đọc diễn văn kết thúc khoá họp trong Nhà thờ Thánh
Phêrô. Gioan XXIII mất ngày 3-6-1963.
TRÌNH
THUẬT 99
TIẾN VÀO TƯƠNG LAI BẰNG NHỮNG LỘ TRÌNH MỚI
“Tôi hết sức đau buồn báo tin cùng
quý vị, Giáo hoàng Phaolô VI đã giã từ chúng ta ngày hôm nay, mồng 6-8-1978 lúc
20 giờ 40 phút”. Bằng lời vắn
gọn đó người phát ngôn Toà Thánh đã loan báo cho thế giới biết về cái chết của Đức
Thánh Cha. Phaolô VI, 81 tuổi, mất vì đứng tim tại Castel Gandolfo. Thông điệp
cuối cùng của ngài là những lời chia sẻ về số phận của những người đói khát và
đau khổ mà “số lượng đang càng ngày càng gia tăng một cách đáng sợ” và
số phận của những người “không thể hoà nhập vào xã hội được”.
Lúc rời Vatican đi nghỉ ở Castel
Gandolfo, Phaolô VI đã có linh cảm là sẽ không trở lại nữa. Ngài nói: “Tôi
ra đi nhưng không biết có trở về hay không và không biết về bằng cách nào”.
Ngày 21-6-1963, Hồng y đoàn bầu Hồng
y Giovanni Battista Montini lên kế vị với danh hiệu là Phaolô VI. Hồng y
Montini đã được mọi người chú ý từ lâu, có thể nói ngài đã được nhắc đến từ sau
khi Piô XII mất, dù lúc ấy ngài chưa có tước hồng y.
Phaolô VI lên với một gánh nặng
quá tải của Gioan XXIII để lại. Gánh nặng đó là Công đồng Vatican II. Ngày 29-9,
ngài khai mạc khoá họp thứ hai của Công đồng với những lời như sau: “Chúng
ta sẽ không khi nào quên những đường hướng mà ngài (Gioan XXIII) với tư cách là
người khai sinh Công đồng đã khôn ngoan chỉ bảo”. Những “đường hướng”
đó là: đào sâu việc nhận diện Giáo Hội, canh tân nội tình Giáo Hội, hỗ trợ việc
hiệp nhất Kitô hữu và đối thoại với thế giới.
“Hiệp nhất các tín hữu”
Nỗi lo lắng của của Phaolô VI về
sự phân rẽ giữa các Giáo hội Kitô giáo được thể hiện qua lời thú tội khi bắt
đầu sứ vụ của ngài: “Về lỗi lầm của
chúng con trong sự chia rẽ này, chúng con khẩn cầu xin Chúa thứ tha và cũng xin
anh chị em (trong các Giáo hội chị em) tha thứ, nếu vì chúng tôi mà anh chị em
cảm thấy bị xúc phạm. Về phía chúng tôi, chúng tôi sẵn sàng tha thứ những bất
công đã xảy đến cho Giáo Hội và sẵn sàng quên đi những đau buồn lớn lao do mối
hiềm khích và chia rẽ lâu dài gây ra”.
Không chỉ nói suông. Hành động
thực thi lời thú đó của Phaolô VI đã làm thế giới ngạc nhiên. Ngày 7-12-1965,
ngài công bố giải vạ tuyệt thông mà Rôma đã ra cho Byzanz vào năm 1054, vạ đã
khiến Giáo hội Đông phương tách lìa khỏi Rôma. Cùng ngày, Thượng phụ
Athenagoras ở Konstantinôp cũng rút lại vạ tuyệt thông đối với Giáo hội Rôma.
Vạ này đã được Giáo hội Đông phương ra trả đũa ngay sau khi bị Rôma tuyệt thông.
Ngày 25-7-1967, đích thân Phaolô VI đến viếng thăm Thượng phụ Athenagoras tại
Konstantinôp. Cùng năm đó, ngày 28-10, Thượng phụ đã đến Rôma thăm viếng đáp
lễ. Hai vị Phaolô VI và Athenagoras đã gặp nhau trước đó ở Giêrusalem nhân dịp
Phaolô VI du hành vùng Cận đông từ ngày 4 đến 6-1-1964.
Phaolô VI tại Giêrusalem
Phóng viên của tờ báo Đức “Frankfurter
Allgemeine Zeitung” tường thuật chuyến viếng thăm Đất Thánh lần đầu tiên
của một giáo hoàng như sau: “Đoàn xe của Giáo hoàng đến cổng thành Damakus
lúc 16 giờ 45 ngày thứ bảy, trễ mất 80 phút. Hoàng hôn đã sớm phủ xuống trên
những tháp canh chen chúc, trên những mái nhà vòm và trên cả những tháp giáo
đường Hồi giáo. Những người Ảrập dậm chân đứng đợi. Các máy phóng thanh oang oang
những bài hát đạo, âm thanh đến đinh tai nhức óc. Lá cây dừa được phân phát cho
dân chúng đang đứng đợi. Lực lượng an ninh Ảrập địa phương rải đầy trên mái
nhà, rải đầy khắp đường phố. Trên cổng thành tráng lệ do Soleiman kiến thiết
gờm sẵn một ụ súng máy. Giáo hoàng phải ngồi đợi trong xe 20 phút, không ra
được vì dân chúng bao vây quanh xe, có kẻ nhoài cả người trên mui xe. Tất cả
các bài diễn văn trong buổi tiếp tân phải huỷ bỏ...
Dòng thác người cuồn cuộn tuốn về
đường Via Dolorosa. Phaolô VI giờ đã được đưa ra khỏi đám đông. Chung quanh
ngài chỉ toàn là kẻ lạ. Cảnh sát mặc thường phục bao vây chặt chẽ quanh ngài.
Ngài bị xô bên này, kéo bên kia. Xe cứu thương chạy ngang qua các cổng thành để
nhận những người bị thương...
Tối khuya, lúc 10 giờ 30, Giáo
hoàng tới chầu Mình Thánh trong nguyện đường ở vườn Giệtsimani. Trước đó đã có
một thay đổi bất thường, vượt ngoài chương trình của Vatican đưa ra. Benediktos,
thượng phụ của Giáo hội Chính thống Hy Lạp tại Giêrusalem, đến thăm Phaolô VI. Giáo
hoàng phải tới thăm đáp lễ. Theo lệ thường Giáo hoàng chưa từng tới thăm đáp lễ
bất cứ một vị nguyên thủ quốc gia nào. Nhưng cuộc thăm đáp lễ Benediktos là
điều kiện cho những gì kế tiếp. Không có việc thăm hỏi Benediktos, thì có lẽ đã
không có cuộc gặp gỡ đại kết với Thượng phụ Athenagoras ở Konstantinôp”.
Giáo hoàng của hoà bình
Phaolô VI đã có tổng cộng 9 chuyến
du hành đến năm lục địa. Ngài tham dự Đại hội Thánh Thể Thế giới tại Bombay (Ấn
Độ), nói chuyện trước Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc ở New York (Hoa Kỳ), thăm Tổ chức
Lao động Quốc tế ở Genève (Thuỵ Sĩ) và Hội đồng Thế giới các Giáo hội. Ngài đã
đến châu Phi (Uganda), đến Nam Mỹ (Kolumbien), đến Manila (Phi Luật Tân),
Samoa, Úc và Hương cảng (Hongkong).
Trong 15 năm tại vị, ngoài các
chuyến đi vòng quanh thế giới, Phaolô VI còn nhiều lần giấn thân cho hoà bình
thế giới bằng qua các tông thư và diễn văn. Đặc biệt Thông điệp “Populorum Progression”
(Phát triển các Dân tộc), tài liệu nói về nền hoà bình thế giới, đã được các
quốc gia thế giới thứ ba đón nhận nồng nhiệt.
Ngài cũng dùng các cuộc gặp gỡ để
phục vụ hoà bình. Tổng cộng Phaolô VI đã tiếp riêng 92 vị nguyên thủ quốc gia
và các vị lãnh đạo chính phủ. Từ năm 1963 đến 1978, ngài còn có quan hệ, tiếp xúc
ngoại giao với 39 quốc gia. Ngài đã không bao giờ biết mệt mỏi trong công cuộc
gây dựng hoà bình thế giới.
Chỉ trong những năm cuối cùng thế giới
mới hiểu được...
Ngay từ nhỏ Phaolô VI đã yếu về
thể lý và tâm lý. Dù vậy, cho đến những ngày cuối đời ngài vẫn không chịu giữ gìn
sức khoẻ. Hồng y Koenig (Giáo phận Wien, nước Áo) phát biểu về Đức Phaolô VI
sau khi ngài từ trần: “Dù không to khoẻ như vị tiền nhiệm, ngài vẫn không xa
cách mọi người. Có lẽ chưa có vị giáo hoàng nào phấn đấu cho tình thương và sự
thông cảm giữa con người với con người như ngài. Hai cánh tay từ tốn và rụt rè
giang rộng của ngài là một biểu tượng. Ngài cũng không được những người trong
nhà thương mến như vị tiền nhiệm. Chỉ mãi tới những năm cuối đời thế giới mới
biết rằng mình đã có được một giáo hoàng như thế nào”.
“Lịch sử sẽ giữ tên ngài”
Trong Thánh lễ Cầu hồn, Hồng y
Confalonieri ca ngợi công nghiệp của Phaolô VI: “Lịch sử sẽ lưu mãi tên ngài
vì vô số công trạng của ngài”. Hồng y nhắc nhớ đến Công đồng đã được “ngài
quyết tâm hướng dẫn và đã đưa tới kết thúc tốt đẹp” và đến giai đoạn sau Công
đồng “khi có một số người xem ra lầm lạc hoặc đi quá giới tuyến canh tân mà
các nghị phụ công đồng đã đề ra”. Phaolô VI đã “giải thích cặn kẽ và cảnh
giác trong tình cha con, đầy cương quyết nhưng cũng tế nhị thận trọng”.
Theo lời Hồng y Confalonieri, điểm nổi bật nơi Phaolô VI là “tôn trọng nhưng
không yếu mềm, rõ ràng minh bạch với đầy cảm thông, không muốn gây thương tổn
cho ai và kiên nhẫn nhìn xa”. Ngài có một tấm lòng “đầy nhân hậu”. “Ngài
nói chuyện với mọi người để củng cố đức tin nơi họ. Ngài đến với mọi anh em
trong các Giáo hội bạn để chia sẻ âu lo và mong ước của ngài về sự hiệp nhất
của Giáo Hội”.
Giáo hoàng Gioan Phaolô I từ trần
sau 33 ngày tại vị
Khi Phaolô VI mất ngày 6-8-1978, Hồng
y đoàn đã lên tới 130 vị. Theo thủ tục bầu đã được Phaolô VI sửa đổi thì chỉ có
116 vị có quyền bỏ phiếu, vì các vị khác đã trên 80 tuổi. Trong số 116 vị có
quyền bầu có 65 hồng y của châu Âu, 23 vị của châu Mỹ Latinh, 15 vị của bắc Mỹ,
12 vị của châu Phi, 11 vị của châu Á và 4 vị của châu Úc. Thực sự chỉ có 111
hồng y về Rôma dự cuộc bầu. Cuộc bầu cử nhanh nhất trong lịch sử Giáo Hội diễn
ra ngày 26-8-1978 đã chọn Hồng y Albino Luciani, Thượng phụ Giáo phận Venezia,
65 tuổi, lên kế vị Phaolô VI. Ngài chọn tên hiệu là Gioan Phaolô I. Sở dĩ chọn
tên hiệu kép này là vì ngài muốn tiếp tục theo đuổi đường lối của hai vị tiền
nhiệm: Gioan XXIII và Phaolô VI.
Khi được bầu, Gioan Phaolô I đối
với công luận thế giới là một nhân vật không tên tuổi. Nhưng khi thấy ngài tươi
cười xuất hiện trên bao lơn Nhà thờ Thánh Phêrô, đám đông dân chúng nồng nhiệt
vỗ tay reo hò chào ngài, như chào một vị mà họ đã từng mong đợi. Chính ngài
cũng tỏ ra chẳng hứng thú lắm về việc đắc cử. Với các hồng y đã bầu mình, ngài
nói: “Xin Chúa tha thứ cho quý vị về những gì quý vị đã gây ra cho tôi”.
Thân phụ của Hồng y Luciani là một
thợ nề, đảng viên đảng xã hội, một người chống giáo sĩ, đã một thời sang làm
thợ khách ở Đức và Thuỵ Sĩ. Vì thế, những người nghèo trên thế giới đặt hy vọng
nhiều vào ngài. Nhưng ngài đã mất sau 33 ngày tại vị vì bị đứng tim. Không ai
hiểu được cái chết đột ngột này, nhưng cũng chẳng ai quên được nụ cười của
ngài.
Gioan Phaolô II đến từ Đông Âu
Ngày 16-10-1978, Hồng y Wojtyla,
Tổng Giám mục Giáo phận Krakau (Ba Lan) được chọn làm Giáo hoàng, với danh hiệu
Gioan Phaolô II. Vị cuối cùng không phải người Ý là giáo hoàng người Đức
Hadrian VI, đã cách nay 455 năm. Gioan Phaolô II không những chỉ là người Slavơ
đầu tiên mà còn là vị giáo hoàng đầu tiên xuất hiện từ trong vùng ảnh hưởng của
chủ nghĩa cộng sản. Đối với báo chí thế giới, sự kiện Hồng y Wojtyla đắc cử là
một “tin chấn động”. Nhưng đối với tín hữu Công giáo, cuộc bầu này đã
chứng tỏ cho thấy rằng Giáo Hội hôm nay cũng không kém trẻ trung và năng động
như Giáo Hội của 2000 năm trước. Nó cũng cho thấy là Giáo Hội ngày nay vẫn có
thể tìm ra được những con đường mới để đi vào thế giới.
Còn tiếp