Đức
TGM Marek Zalewski vừa trở lại Singapore sau chuyến viếng thăm lần thứ
14 của ngài tại Việt Nam.
AYE_GIUA
1.
Thưa Đức Tổng, là Đại diện không thường trú của Đức Thánh Cha tại Việt
Nam hơn một năm, Đức Tổng nghĩ gì về Giáo hội Công giáo tại Việt Nam?
Cảm
ơn cha vì câu hỏi này. Ở đây chúng ta nên nhớ một vài điểm liên quan
đến định nghĩa về Giáo hội Công giáo và Giáo hội địa phương. Điều này có
thể giúp người Công giáo Việt Nam hiểu rõ hơn về bản chất của Giáo hội
và ơn gọi (sứ mạng) của họ với tư cách là Thành viên của Giáo hội (các
môn đệ của Chúa Giêsu Kitô, Dân mới của Thiên Chúa).
Giáo hội
Công giáo không phải là một giáo hội được tạo thành từ nhiều giáo phận
trên khắp thế giới, như thể đây là một loại tổ chức quốc tế, hay liên
đoàn chính trị. Giáo hội cũng không phải là một cơ quan quốc tế với giấy
phép hay nhượng quyền cho địa phương. Giáo hội là một và là công [giáo]
(nghĩa là phổ quát) từ bản chất của nó khi được cấu thành bởi các giáo
hội địa phương hoặc đơn vị chúng ta gọi là giáo phận.
Vị tiền
nhiệm của tôi, Đức Tổng Giám mục Leopoldo Girelli đã từng nói: “Giáo hội
toàn thể thể hiện nơi giáo hội địa phương. Nhưng giáo hội địa phương
không phải là Giáo hội toàn thể. Đó là lý do tại sao chúng ta có thể nói
rằng chúng ta là người Công giáo, nghĩa là chúng ta là thành viên của
Giáo hội Công giáo nơi giáo hội địa phương của chúng ta, đó là sự hiệp
thông với các giáo hội địa phương trên khắp thế giới. Sự kết hợp này
được duy trì và củng cố bởi sự hiệp thông của chúng ta với Giám mục
Rôma. Giám mục giáo phận đại diện cho Chúa Kitô tại giáo hội địa phương
giống như Giám mục Rôma (Đức Giáo hoàng, Đức Thánh Cha) đại diện cho
Chúa Kitô nơi Giáo hội toàn cầu.”
Giám mục địa phương không phải
là đặc phái của Giám mục Rôma (của Giáo hoàng, người kế vị Thánh Peter),
như nhiều người nghĩ. Ngài phải hiệp nhất với Đức Thánh Cha để giáo hội
địa phương là thực sự. Giám mục địa phương dẫn dắt giáo phận nhân danh
Chúa Kitô cùng với Phêrô hiện tại (Đức Giáo hoàng Phanxicô) và dưới
quyền Phêrô vì Đức Giáo hoàng là Trưởng Giám mục đoàn, mà giám mục địa
phương là thành viên.
Có nhiều diễn tả về giáo hội địa phương,
bao gồm các giáo xứ, các cộng đoàn dòng tu và các hiệp hội thiêng liêng.
Giáo xứ là nơi hầu hết mọi người trải qua được kinh nghiệm thực tế của
Giáo hội và giới răn của Chúa Giêsu về việc phải yêu thương nhau như
Ngài yêu chúng ta.
Do đó, sứ mạng của Giáo hội là tiếp tục công
việc của Chúa Kitô bằng cách thi hành ý muốn của Thiên Chúa, loan báo
Tin mừng mà chúng ta đã lãnh nhận từ Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta càng dấn
thân mạnh mẽ và sâu xa vào sứ mạng của Giáo hội với tư cách là người
Công giáo, chúng ta sẽ càng trung tín với Chúa Giêsu Kitô và thi hành ý
muốn của Thiên Chúa.
Đặc biệt trong dịp cử hành Tháng truyền
giáo, chúng ta phải nhìn thấy giáo xứ của chúng ta là giáo xứ truyền
giáo, với sứ mạng loan báo và sống Tin Mừng trong thế giới. Như những cá
nhân và hơn nữa là giáo xứ, chúng ta được mời gọi dấn thân vào sứ mạng
của Giáo hội. Như các Kitô hữu đã chịu phép rửa và thêm sức bởi Thánh
Thần, chúng ta có nghĩa vụ thiêng liêng trong việc dấn thân vào công
việc của Chúa Kitô nơi thế giới của thời đại chúng ta.
2. Đức Tổng đến từ Ba Lan, xin Đức Tổng cho biết Giáo hội Việt Nam có thể học hỏi những kinh nghiệm nào từ Giáo hội Ba Lan?
Mỗi
quốc gia có lịch sử và hoàn cảnh khác nhau, làm cho họ khác biệt với
các quốc gia khác. Với tình hình chính trị xã hội của Ba Lan như là một
quốc gia ở Trung-Đông Âu, Giáo hội Công giáo tại Ba Lan đã và đang là
duy nhất và không thể so sánh với bất kỳ quốc gia nào khác.
Trong
cả ngàn năm, Giáo hội Công giáo tại Ba Lan, tôi có thể nói, là ‘kho lưu
trữ’ của nhà nước tại Ba Lan, khiến Giáo hội trở thành Công giáo nhất
giữa các nước cộng sản thời bấy giờ (dưới sự thống trị về chính trị và
kinh tế của Liên Xô). Để hiểu rõ hơn về hoàn cảnh độc đáo này, chúng ta
phải biết rằng, trong các cuộc xung đột với các nước láng giềng Tin lành
và Chính thống Nga trong nhiều thế kỷ trước, bảo vệ đất nước cũng đồng
nghĩa với việc bảo vệ Giáo hội Công giáo.
Điều này cũng không
khác trong Thế chiến II, bởi vì bảo vệ đất nước cũng có nghĩa là bảo vệ
giáo hội và các giá trị văn hóa và truyền thống mà Giáo hội gìn giữ -
đây chính là những điều mà người Ba Lan sợ cộng sản sẽ phá hủy. Trải qua
cuộc chiến tương tàn để sinh tồn trong thời kỳ Stalin (những năm 50),
với những đàm phán theo cách thế của mình để hầu như cùng chung sống
trong hoà bình với Chính phủ, Giáo hội Công giáo tại Ba Lan trong thập
niên 80 đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng.
Vào ngày 13 tháng
12 năm 1981, ngày quân đội chiếm Ba Lan, người Ba Lan, trong sự choáng
váng, tức giận và bối rối trước áp bức, đã trở về với nơi ẩn nấu truyền
thống, như một bản năng. Tại Warsaw, hàng ngàn người đổ về các nhà thờ
của thủ đô để cầu nguyện và tìm kiếm sự an ủi. Các nhà thờ cũng được sử
dụng để gặp gỡ những người khác và nghe tin tức. Thực tế, đó là nơi duy
nhất hợp pháp cho các cuộc tụ họp công cộng như thế.
Điều độc đáo
và đặc biệt của hoàn cảnh này là người dân cần Giáo hội để được an ủi
và nâng đỡ, nhờ sự tự do bên trong Giáo hội; đó là hy vọng duy nhất của
họ. Và Chính phủ, vốn không quen thuộc với các công dân Ba Lan, cần Giáo
hội như là kênh truyền trực tiếp duy nhất đến người dân. Đối với Giáo
hội, một cuộc nội chiến, một cuộc cách mạng, bất ổn xã hội hoặc bất kỳ
hình thức bạo lực nào, đều là tệ hại hơn nhiều so với sự hạn chế về tự
do dân sự. Mối quan tâm đầu tiên của Giáo hội là kiến tạo một bầu khí an
hoà để con người phát triển và giáo dục con cái của họ.
Mặc dù
Ba Lan và Việt Nam ít có mối liên hệ do khác biệt về vị trí địa lý,
nhưng cả hai quốc gia đều có những điểm tương đồng trong lịch sử của
mình. Cả hai đều là một trong số các nước có lịch sử dài nhất và lâu đời
nhất ở châu Âu và châu Á. Cả người Công giáo Ba Lan và Việt Nam đã đóng
góp tích cực trong các lĩnh vực công bằng xã hội, nhân phẩm, bảo vệ sự
sống và gia đình, giáo dục trẻ em và thanh thiếu niên, chăm sóc bệnh
viện và vô số các công việc bác ái trong đất nước.
Xuyên suốt
lịch sử quan hệ, Ba Lan đã đóng cả hai vai trò chính thức và không chính
thức trong sự phát triển và xây dựng Giáo hội Công giáo tại Việt Nam.
Vào thế kỷ 17, tu sĩ Dòng Tên Ba Lan, Wojciech Męciński, đã đến thăm
Việt Nam trong một chuyến đi đến châu Á, và được ghi nhận chính thức như
là người Ba Lan đầu tiên đến Việt Nam. Quan hệ ngoại giao chính thức
được thiết lập vào năm 1950. Ông Janusz Lewandowski, đại diện phái đoàn
Ba Lan trong Hiệp định Genève năm 1954, đã phản đối ý tưởng tách đôi
Việt Nam, vốn được đề nghị bởi Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa mới
thành lập.
Quan hệ Ba Lan - Việt Nam phát triển từ các chương
trình trao đổi sinh viên của những năm 1950 và 1980. Trong thời gian đó
cả Ba Lan và Việt Nam là các nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa dưới sự chi
phối của Liên Xô. Cả hai nước đều là thành viên của Hội đồng Tương trợ
Kinh tế và nhiều người Việt Nam đã sống và làm việc tại Ba Lan.
Đức
Giáo hoàng Gioan Phaolo II, người Ba Lan, đã phong thánh cho các vị tử
đạo Việt Nam năm 1988. Vị Giáo hoàng Ba Lan hy vọng dùng điều này như
một cơ hội để thiết lập quan hệ với Việt Nam, mặc dù ngài chưa bao giờ
đến thăm Việt Nam vì tình hình chính trị thời đó.
Ngài cũng nhận
ra tầm quan trọng của Đức Mẹ La Vang. Sứ điệp của ngài trở nên một cách
thế làm cho Chính phủ Việt Nam thừa nhận tầm quan trọng của La Vang
trong lịch sử Kitô giáo của Việt Nam. Thánh Gioan Phaolô II, cũng là một
nhân vật đáng kính giữa người Việt Nam, cả người Công giáo lẫn người
ngoài Công giáo, ngay cả khi ngài qua đời năm 2005. Vị Giáo hoàng Ba Lan
cũng được coi như đã đặt khung cho sự bình thường hóa quan hệ giữa Tòa
thánh và Việt Nam.
Như thế, tóm lại, chúng ta có thể học được gì
từ kinh nghiệm của Ba Lan? Chúng ta có thể học kiên nhẫn, sống những gì
chúng ta tin, loan báo những gì chúng ta đã nhận được và đóng góp cho sự
phát triển toàn diện người dân và đất nước Việt Nam yêu dấu của anh chị
em. Cuối cùng, và quan trọng nhất, chúng ta cần nhớ những gì Chúa Giêsu
đã nói: Anh em đừng buồn phiền. Hãy tin vào Chúa và tin vào Thầy (x. Ga
14,1).
Tôi muốn kết thúc bằng một trích dẫn của Cha Tischner, nhà
văn và nhà thơ Công giáo Ba Lan nói về trách nhiệm của Giáo hội:
“Phương pháp của Giáo hội Công giáo là không chi phối trực tiếp lên bất
kỳ ai, nhưng dạy và giáo dục các công dân. Giáo hội đã giáo dục thế hệ
trẻ Ba Lan với ba khái niệm chốt: phẩm giá con người, sự thật và công lý
(và tôi thêm: trung thành với giáo huấn của Chúa Giêsu).
Đây là
thế hệ đã tạo ra sự Đoàn kết. Đoàn kết là một xu hướng không kêu gọi đấu
tranh giai cấp như một phương thức hành động. Bằng cách này, nó khác
với các hệ thống chính trị - đây là ảnh hưởng của Giáo hội. Chúng ta
(Giáo hội) nhìn thấy tất cả những ai muốn gặp chúng ta - công nhân, gia
đình quân nhân, cảnh sát, để làm tăng sự nhận thức. Đây là con đường tối
hậu để thay đổi thực sự”.
3. Xin Đức Tổng kể một câu chuyện đánh động hay đáng nhớ mà ngài trải qua khi thi hành sứ mạng ở Việt Nam?
Đây
là một câu hỏi rất thú vị và cá nhân. Tôi không chỉ có một câu chuyện
đáng nhớ để chia sẻ vì mỗi lần tôi đến Việt Nam đều là một trải nghiệm
mới, cảm động và độc đáo!
Đến nay, tôi đã thực hiện 14 chuyến
thăm mục vụ đến Việt Nam, và viếng thăm nhiều giáo phận, chủng viện, dòng tu, các cộng đoàn và gia đình Công giáo. Và trong năm nay, tôi đang
có kế hoạch cho ba chuyến thăm mục vụ nữa, bao gồm cả lễ nhận toà của
Tổng Giám mục mới của TP. Hồ Chí Minh, Đức Tổng Giuse Nguyễn Năng.
Tôi
rất biết ơn Đức Thánh Cha Phanxicô kính yêu đã bổ nhiệm tôi làm Đại
diện của Ngài tại Việt Nam hơn một năm trước. Như đã đề cập ở trên, đến
từ Ba Lan với nhiều mảng lịch sử tương tự Việt Nam, tôi thấy mình đang
nhìn đến một đỉnh tháp của lịch sử Việt Nam và tôi khiêm tốn tham dự vào
một sự kiện như thế.
Khi tôi ở Việt Nam, tôi luôn cảm thấy như ở
nhà mình khi được mọi người chào đón: các Giám mục, Linh mục, Người trẻ
và trẻ em, đôi khi với những biểu diễn nghệ thuật, âm nhạc và điệu múa
truyền thống! Sự hiếu khách, phong phú và nhiệt tình của tín hữu tại
Việt Nam rất truyền cảm.
Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc tới
Chính phủ Việt Nam, Chủ tịch và Thư ký của Hội đồng Giám mục Việt Nam,
những người luôn hỗ trợ tôi trong các chuyến đi và dịch các bài phát
biểu và bài giảng của tôi sang tiếng Việt.
4. Đức Tổng có nhắn gởi gì cho giới trẻ Việt Nam?
Trước
hết, tôi muốn nói rằng các bạn trẻ nam nữ, tràn đầy tình yêu với Chúa
Kitô, được mời gọi làm chứng cho Tin Mừng ngang qua cách sống của mình.
Thánh Alberto Hurtado đã từng nói rằng, “trở thành một tông đồ không có
nghĩa là đeo ghim cài áo; không phải là nói về sự thật mà là sống nó, là
hiện thân của nó, được biến đổi trong Chúa Kitô. Trở thành tông đồ
không có nghĩa là cầm một ngọn đuốc trong tay, nhưng là chính ánh sáng
đó”.
Việc làm chứng là quan trọng nhưng không có nghĩa là chúng
ta im lặng không nói Lời Chúa. Tại sao chúng ta không nói về Chúa Giêsu,
tại sao chúng ta không nói với người khác rằng Ngài ban cho chúng ta
sức mạnh trong cuộc sống, rằng Ngài yêu chúng ta và chúng ta có thể yêu
nhau vì Ngài?
Các bạn trẻ thân mến, đừng để thế giới lôi kéo bạn
vào những điều sai trái và hời hợt. Hãy học cách bơi ngược với thủy
triều, học cách chia sẻ Chúa Giêsu và đức tin mà Ngài đã ban cho bạn.
Đừng
ngại ra đi và mang Chúa Kitô vào mọi ngóc ngách của cuộc sống, đến cả
rìa của xã hội, ngay cả với những người có vẻ xa cách và thờ ơ nhất.
Ngài mời các bạn trở thành những nhà truyền giáo can trường dù các bạn ở
đâu và tại bất kỳ nơi làm việc nào, giống như các vị tử đạo Việt Nam đã
làm. Dù ở đâu, chúng ta luôn có cơ hội chia sẻ niềm vui của Tin Mừng.
Bạn là môn đệ của Ngài và bạn đại diện cho Ngài. Đây là cách Chúa đi ra
gặp gỡ mọi người.
Đức TGM Marek Zalewski nói với giới trẻ Công giáo Việt Nam
Sứ mạng này không dễ dàng và một số người trẻ đã hy sinh mạng sống của họ vì công cuộc truyền giáo.
Các
bạn trẻ thân mến, Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: niềm hy vọng hân hoan
của cha là thấy các con tiếp tục cuộc đua phía trước, vượt xa những ai
chậm chạp hoặc sợ hãi. Hãy tiếp tục chạy, ‘được lôi cuốn bởi khuôn mặt
của Đức Kitô, Đấng chúng ta rất yêu mến, Đấng chúng ta tôn thờ trong Bí
tích Thánh Thể và nhận ra nơi xác thịt những anh chị em đau khổ của
chúng ta. Xin Thánh Thần thúc đẩy các con trong cuộc đua này. Giáo hội
cần động lực, trực giác, đức tin của các con. Chúng ta cần chúng! Và khi
các con đến nơi mà chúng tôi chưa đến, thì hãy kiên nhẫn chờ đợi chúng
tôi” (Tông huấn Christus vivit, hậu Thượng HĐGM về Người trẻ).
Xin cảm ơn!
***
Chúng
ta sắp bước sang Mùa Vọng, tôi muốn gửi đến tất cả các tín hữu tại Việt
Nam những lời chúc sâu sắc nhất, lời cầu nguyện và phúc lành trong suốt
thời gian này. Ước gì nó trở thành thời gian ý nghĩa và ơn ích trong
việc chuẩn bị cho Giáng Sinh trọng đại của Chúa chúng ta.
+ Marek Zalewski
PR