1. Những nét lịch sử chính yếu khai sinh ra giáo phận
Hạt
giống Tin Mừng được mang đến phần đất Nghệ - Tĩnh - Bình, tức lãnh thổ giáo
phận Vinh ngày nay, có thể là rất sớm. Nhưng một cách chính xác, phải nói đó là
năm 1629, tức là 2 năm sau khi nhà truyền giáo vĩ đại Alexandre de Rhodes (Đắc
Lộ) đặt chân lên Cửa Bạng - Thanh Hoá, đi tiên phong cho đội ngũ thừa sai dòng
Tên, đặt nền móng cho Giáo hội Công giáo tại Đàng Ngoài (Bắc Hà) Việt Nam. Năm
1629, giáo sĩ Đắc Lộ và giáo sĩ P. Marques ở Thăng Long, bị bức xuống thuyền
theo đường biển, vào Nam, để về Macao. Đoàn tranh thủ giảng đạo tại những cửa
biển thuộc Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình: Cửa Chúa, Cửa Lò, Cửa Rùm, Cửa Sót.
Năm
1634, Cửa Rùm đã là một giáo khu phồn thịnh với 4.183 tín hữu.
Năm
1659, Toà Thánh thiết lập hai giáo phận đầu tiên ở Việt Nam: giáo phận Đàng
Trong và giáo phận Đàng Ngoài. Phần giáo phận Vinh ngày nay thuộc giáo phận
Đàng Ngoài.
Hai
mươi năm sau, năm 1679, Toà Thánh lại chia giáo phận Đàng Ngoài thành giáo phận
Đông Đàng Ngoài và giáo phận Tây Đàng Ngoài, Nghệ -Tĩnh - Bình vẫn thuộc giáo
phận Tây Đàng Ngoài.
Năm
1846, giáo phận Vinh được thành lập, tách từ giáo phận Tây Đàng Ngoài, gọi là
giáo phận Nam bên Bắc Kỳ về sau gọi là giáo phận Vĩnh, rồi giáo phận Vinh.
Trước
lúc thành lập, điều lý thú là phần đất Nghệ - Tĩnh - Bình này, tuy thuộc giáo
phận Tây Đàng Ngoài, nhưng theo nhận xét của lãnh đạo giáo phận Tây - vì xa
xôi, lại có lòng đạo vững vàng sốt sắng và có giọng nói khác biệt với phần còn
lại, nên đã được dành cho một quy chế đặc biệt: giám mục chính ở Hoàng Nguyên,
Hà Nội, thì giám mục phó hay linh mục tổng đại diện chốt ở phần phía nam xa xôi
này. Cụ thể là:
-
Từ 1690 đến 1796, ở Trang Đen, bây giờ thuộc huyện Nam Đàn, Nghệ An, 106 năm
với 3 giám mục phó lần lượt coi sóc. Hiện nơi đây còn mộ hai giám mục là Đức
Cha Edme Bélot (+1717) và Đức cha L.M. Deveaux (+1756). Vị phó thứ ba tại Trang
Đen là Đức cha Jean Davoust, thụ phong năm 1771, đến năm 1780 ra thay Đức cha
chính là Đức cha Bennetat qua đời. Nhưng vì quyến luyến Xứ Nghệ, nên khi thì
ngài ở Hà Nội, khi thì ở Trang Đen. Ngài mất năm 1789. Năm 1792, cha J.B.
Longer Gia từ Hướng Phương (Quảng Bình) được bổ nhiệm làm giám mục giáo phận
Tây, nên ngài ra Hà Nội.
-
Đức cha Longer Gia được đặc ân chọn kế tiếp nhau 4 giám mục phó. Vị đầu tiên là
Đức cha Charles de la Motte Hậu I (1796-1816), ngài bỏ trụ sở Trang Đen về đóng
tại Thọ Kỳ tức Thọ Ninh ngày nay. Tiếp theo là Đức cha J. Jaques Guévard Đoan
(1816-1823). Cả 2 vị qua đời và đều được an táng tại Thọ Kỳ. Vị thứ ba là Đức
cha F.M. Pellerin Phan, mất và an táng tại Nam Định. Vị thứ tư là Đức cha J.M.
Havard Giu, chỉ ở Thọ Kỳ được 2 năm rồi ra Hà Nội, lên kế vị Đức cha Longer
(+1835). Thánh giám mục Pierre Borie Cao đắc cử giám mục khi đang bị giam tại
nhà tù Đồng Hới, Quảng Bình. Ba tháng sau, ngài chết để làm chứng cho Chúa tại
Đồng Hới. Đức cha P.M. Retord Liêu được thụ phong vào năm 1840, đã đặt giám mục
phó là Đức Cha J. Denis Gauthier Hậu II (1844). Đức cha phó bỏ Thọ Kỳ dời trụ
sở về Xã Đoài. Hai năm sau, Toà Thánh tách Xứ Nghệ khỏi Tây Đàng Ngoài và thành
lập giáo phận Nam Đàng Ngoài, đặt Đức cha Gauthier Hậu II làm đại diện tông toà
đầu tiên của địa phận mới (1846) tức là giáo phận Vinh ngày
nay.
2. Đặc điểm tình hình giáo phận
Năm
1659, khi Toà Thánh thiết lập hai giáo phận đầu tiên ở Việt Nam, vùng đất
Nghệ-Tĩnh-Bình đã có nhiều cơ sở và giáo xứ do các cha dòng Tên, các linh mục
Hội Thừa sai Paris và linh mục Việt Nam coi sóc. Trong tập “Lịch sử nước Annam”
do Bentô Thiện gửi cho cha Marini năm 1659 viết: “Nghệ An xứ những nhà thờ Đức
Chúa Blờy đựac bải mươy lăm nhà thánh”.
Năm
1707, theo báo cáo của Đức cha Jaques de Bourges, tình hình giáo dân ở vùng
giáo phận Vinh lúc này: xứ Nghệ An, cha Bảo Lộc Tri coi sóc 3.000; Bố Chánh,
cha Giuse Phước coi 4.000.
Năm
1846, khi thành lập, giáo phận có một giám mục, 35 linh mục Việt Nam, 4 thừa
sai, 75 thầy giảng, 69 chủng sinh, 220 nữ tu, 18 giáo xứ và 66.350 giáo dân.
Thời
Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, nhiều thừa sai, linh mục, tu sĩ và giáo dân đã bị
giết hại, trong số đó có 6 vị đã được Đức Gioan Phaolô II tuyên phong hiển
thánh ngày 19-6-1988.
Ngày
15-8-1892, Đức cha Louis Pineau Trị dâng hiến giáo phận cho Đức Mẹ. Năm đó,
giáo phận có: 1 giám mục, 31 thừa sai, 72 linh mục Việt Nam, 224 thầy giảng, 16
đại chủng sinh, 200 tiểu chủng sinh, 175 nữ tu, 88.227 giáo dân, 56 giáo xứ,
514 giáo họ và 300 nhà thờ.
Ngày
3-12-1924, tất cả các giáo phận ở Việt Nam đổi tên theo địa bàn hành chính nơi
đặt toà giám mục, nên giáo phận Tông toà Nam Đàng Ngoài đổi thành giáo phận
Vĩnh, về sau được gọi là giáo phận Vinh do Đức cha André Léonce Eloy Bắc coi
sóc.
Ngày
24-11-1960, Toà Thánh thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam và nâng các giáo phận
tông toà lên hàng chính toà, giáo phận Vinh cũng được nâng lên vào ngày này và
thuộc Tổng giáo phận Hà Nội.
Đức
cha Phaolô Cao Đình Thuyên là giám mục chính cai quản giáo phận cho đến ngày 13-5-2010.
Ngày
13-5-2010. Đức Thánh Cha nhận đơn từ chức của Đức cha Phaolô Maria Cao Đình
Thuyên, đồng thời bổ nhiệm Linh mục Phaolô Nguyễn Thái Hợp, OP, làm Giám mục
Giáo phận Vinh. Lễ Tấn phong ngày 23-7-2010.
|