Sáng ngày 20-7-1857, quân lính điệu Đức cha Giuse ra pháp trường tỉnh Nam Định. Ngài vừa đi vừa thầm thỉ cám ơn Chúa, vì Chúa đã thương cho ngài được đổ máu ra hiệp cùng Máu Thánh Chúa Giê-su cứu chuộc nhân loại. Đến nơi, ngài trao cho viên chỉ huy 30 quan tiền và nói: Xin ông nhận số tiền này, và ra lệnh cho lý hình chém tôi 3 nhát, chứ đừng chém một nhát: nhát thứ nhất để tôi tạ ơn Chúa, nhát thứ hai để tôi đền ơn cha mẹ, nhát thứ ba để nêu gương cho bổn đạo tôi trung thành sống chết theo Chúa.
Thật là một cử chỉ anh hùng Đức cha Giuse An đã để lại cho hậu thế. Ngài sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Chúa, ngài còn muốn nêu gương cho các tín hữu can đảm tuyên xưng đức tin, để được hưởng triều thiên tử đạo với ngài. Lúc sống, ngài đã nhiệt thành đem ơn cứu rỗi đến cho họ; khi chết, ngài cũng muốn họ thông phần hạnh phúc muôn đời.
Giuse An sinh năm 1818, tại Lugô, nước Tây Ban Nha. Lớn lên, cậu được Chúa gọi dâng mình cho Chúa, gia nhập chủng viện ở Lugô và sau vào đại học. Trong thời gian nầy, thầy được biết các Linh mục dòng Đaminh giảng đạo tại Viễn Đông. Ơn Chúa soi sáng thầy mến mộ công cuộc truyền giáo ở miền xa, nên đã xin vào Dòng Thuyết giáo và được gởi học tại Cađê.
Ngày 23-3-1844, thầy thụ phong linh mục, và sau đó được lên đường đi giảng đạo. Vị tân linh mục đến địa phận Đông Đàng Ngoài ngày 12-9-1845. Sau thời gian học tiếng Việt, cha lấy tên là An và được đặt cử làm Giám đốc Chủng viện Lục Thuỷ. Nhưng năm 1848, vua Tự Đức ra chiếu chỉ cấm đạo gắt gao, chủng viện phải đóng cửa, cha và một số chủng sinh đến ẩn náu ở miền Cao Xá, lén lút học hành tu luyện.
Trong khi đó, Đức Giáo Hoàng Piô IX thiết lập Địa phận Trung, tách khỏi Địa phận Đông Đàng Ngoài, và đặt Cha Mátti Gia làm Giám mục địa phận mới. Trong sắc lệnh bổ nhiệm, Toà Thánh cho vị yân Giám mục quyền chọn Giám mục phó. Vì thế, Đức cha Gia chọn Cha Giuse An làm Giám mục phó của ngài. Từ đó, hai vị tân Giám mục hăng say cộng tác điều khiển giáo phận, mở mang Nước Chúa.
Nhưng chưa được bao lâu, Đức cha Gia lâm bệnh nặng qua đời ngày 26-4-1850, Đức cha An phải một mình gánh lấy trách nhiệm điều hành giáo phận và công cuộc truyền giáo. Nhờ tài đức của ngài, việc giảng đạo ngày càng kết quả. Số người theo đạo ngày càng đông, chỉ trong năm 1852, số rửa tội đã lên đến hơn 28 ngàn người.
Năm 1854, nhiều nhóm dân nổi dậy chống lại triều đình, Đức Cha cấm giáo dân tham gia. Nhờ đó, các quan giảm bớt việc bắt bớ người Công giáo. Tổng đốc Nguyễn Đình Tân biết rõ nơi Đức Cha ở, nhưng không cho quân lính đến bắt, và còn hứa nếu khi nào phải bắt Đức Cha thì sẽ báo trước. Nhưng tháng 5-1857, đang lúc quan thượng thư có mặt ở Nam Định, tên chánh Mẹo đến tố cáo có Tây Dương Đạo trưởng tên An ở Bùi Chu. Quan tổng đốc buộc lòng phải sai quân đi bắt Đức Cha. Quan cũng cho báo trước, song tin chưa kịp đến thì Đức Cha đã bị bắt.
Quân lính giải nộp Đức Cha về Nam Định, tổng đốc Nguyễn Đình Tân sợ quan Thượng thư biết mình che chở Đức Cha, nên ra lệnh tra tấn và tống ngục. Nhiều lần vị anh hùng đức tin bị bắt ép bước qua Thánh giá, nhưng ngài luôn can đảm chống đối, nên bị kết án tử hình. Ngày 20-7-1857, quân lính điệu ngài ra pháp trường. Và theo lời ngài yêu cầu, tên lý hình đã chém ngài 3 nhát, đưa linh hồn vị chứng nhân anh dũng của Chúa vào Thiên Quốc.
Ngày 29-4-1951, Đức Thánh Cha Piô XII đã phong Chân phước cho ngài, và Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên Hiển thánh ngày 19-6-1988.