Toàn thể Giáo hội hôm nay đang tập
trung quan tâm đến Tân Phúc-Âm-hoá. Năm 2010, Đức Bênêđictô XVI lập Hội
đồng Toà Thánh lo thúc đẩy việc Tân Phúc-Âm-hoá, đến năm 2012 ngài họp
Thượng Hội đồng Giám mục Thế giới khoá 13 bàn về đề tài “Tân Phúc-Âm-hoá
để thông truyền đức tin Kitô giáo”. Vì thế, ta sẽ cố gắng tìm hiểu một
lần đến nơi đến chốn, để cảm thông với Giáo hội và góp phần vào việc Tân
Phúc-Âm-hoá. Ta sẽ tìm hiểu về ý nghĩa mỗi chữ rồi đến ý nghĩa các cụm
từ.
1. Ý nghĩa mỗi chữ
Linh mục Stêphanô Huỳnh Trụ đã có bài viết nghiên cứu đầy đủ; ở đây chỉ tóm tắt những gì cốt yếu giúp ta hiểu thôi.
– Nghĩa chữ “Tân”: Tân có 12 chữ Hán, nghĩa chính là: “mới”, thay đổi cho mới, những cái mới, những gì mới xuất hiện.
–
Nghĩa chữ “Phúc”: Phúc có 9 chữ Hán, nghĩa chính là: những sự tốt lành,
điều may, những điều tốt đẹp trời đất ban để thỏa mãn nguyện vọng của
con người.
– Nghĩa chữ “Âm”: Âm có 11 chữ Hán, nghĩa chính là tiếng phát ra bởi vật thể bị chấn động, tin tức.
–
Nghĩa chữ “Hoá”: Hoá có 2 chữ Hán, nghĩa chính là dạy, giáo dục, thay
đổi, biến chất. Nếu đặt sau danh từ hay tĩnh từ thì có nghĩa là chuyển
biến trạng thái hay tính chất của vật, làm cho trở thành, biến thành,
làm cho thấm nhuần.
Trong cụm từ Tân Phúc-Âm-hoá phải lưu ý phân
biệt, nếu coi Tân là bổ nghĩa cho Phúc-Âm-hoá thì mới hiểu được là việc
hay công cuộc Phúc-Âm-hoá được đổi mới, canh tân. Nếu coi Tân chỉ bổ
nghĩa cho Phúc Âm mà thôi thì sẽ là Phúc Âm mới: ta nghĩ xem có Phúc Âm
mới không, nếu có thì nó thế nào? Ta phải nắm vững ngay rằng không bao
giờ có Phúc Âm mới, vì chỉ có một Phúc Âm duy nhất mà Đức Giêsu Kitô đem
đến cho mọi người “Đức Giêsu Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi là một”
(Dt 13,8). Ta sẽ tiếp tục tìm hiểu ý nghĩa các cụm từ.
2. Phúc ÂmPhúc
Âm hay Tin Mừng là cụm từ dịch tiếng Hy Lạp euaggelion nghĩa là tin vui
thắng trận. Thời trước đây quen gọi là Evan: đọc Evan, sách Evan. Sau
mới dịch là Phúc Âm. Linh mục Phan Tấn Thành cho biết: “Hồi còn nhỏ cách
đây 60 năm khi đi lễ Chúa Nhật tôi được nghe đọc sách Evan. Khi đi tu
cách đây 55 năm, tôi được nghe đọc sách Phúc Âm”. Từ thập niêm 60, chữ
Phúc Âm được phổ biến khắp Việt Nam: sách Phúc Âm, rao giảng Phúc Âm,
các lời khuyên Phúc Âm. Sang thập niên 90, thấy từ Tin Mừng dần dần xuất
hiện trong thánh đường, rồi trong sách vở (xem Hiệp Thông, số 73, tháng
11 & 12). Có người đoán rằng Phúc Âm là tiếng Hán, được dùng từ
thời các cố, các cụ già xưa, người bình dân sau này khó hiểu; còn Tin
Mừng là tiếng Nôm, tiếng Việt dễ hiểu, gần với tin lành, tin vui, như
tin trúng số, tin thi đậu... Tuy nhiên, theo Linh mục Huỳnh Trụ thì Tin
Mừng chỉ có nội dung đơn giản (tin chiến thắng, tin vui, tin lành), còn
Phúc Âm thì có nội dung rất phong phú, sâu sắc, bao hàm nhiều điều tốt
đẹp may mắn trời đất cho, để con người được thoả mãn mơ ước của mình,
lại gần với triết lý và văn hoá Đông phương, có Ngũ Phúc hay Phúc Lộc
Thọ, nhất là có thể hội nhập với giáo lý Kitô giáo. Từ Phúc Âm có nghĩa
tuyệt vời như vậy, tại sao lại thích từ mới là Tin Mừng, chỉ gợi ra ý
nghĩa hạn hẹp nghèo nàn. Vì thế, trong bài này tôi sẽ dùng Phúc Âm thay
Tin Mừng, mặc dù rất nhiều tài liệu vẫn dùng cả Phúc Âm và Tin Mừng lẫn
lộn (nhưng không thấy dùng “những lời khuyên Tin Mừng” và cũng không
thấy dùng “Tân Tin Mừng hoá”). Bây giờ ta tìm hiểu ý nghĩa cụm từ Phúc
Âm. Cụm từ Phúc Âm bao hàm một nội dung rất gần gũi với đức tin Kitô
giáo, có thể hiểu cụm từ này theo 3 nghĩa:
– Phúc Âm của Đức Kitô (có từ đầu thế kỷ I)
– Phúc Âm về Đức Giêsu Kitô (có từ giữa thế kỷ I)
– Phúc Âm là sách ghi chép về cuộc đời và giáo huấn của Đức Giêsu Kitô (có từ thế kỷ II)
2.1
Phúc Âm của Đức Kitô: là tin đem lại hạnh phúc do chính Đức Giêsu Kitô
là Con Đức Chúa Cha được cử đến trần gian, để báo cho mọi người biết
rằng: Thiên Chúa Ba Ngôi vì tình yêu đã sáng tạo vũ trụ và con người,
chia sẻ hạnh phúc cho con người. Nhưng con người nghe ma quỷ cám dỗ
không muốn vâng phục Thiên Chúa rồi sa ngã trong tội lỗi, đau khổ triền
miên. Thiên Chúa vẫn thương, đã cử Đức Giêsu Kitô đến trần gian, không
những để báo tin Thiên Chúa sẽ cứu rỗi, và còn trao cho Đức Giêsu Kitô
sứ vụ cứu rỗi bằng hiến mạng sống cứu chuộc tội lỗi loài người, để quy
tụ tất cả mọi vật mọi người về hưởng hạnh phúc trong nước Thiên Chúa
(Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 516-518). Như thế nội dung của
Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô là: Thiên Chúa yêu thương con người đã cứu
rỗi và cứu chuộc con người. Và lịch sử Giáo hội là lịch sử việc Đức
Giêsu Kitô loan báo Phúc Âm và thiết lập Nước Thiên Chúa ở trần gian,
đem lại hạnh phúc thật cho con người. Muốn hiểu đúng và sâu nội dung này
ta cần tìm hiểu hai từ then chốt là cứu rỗi và cứu chuộc.
Cứu
rỗi và cứu chuộc đều là chữ Nôm, tiếng của nhà đạo, các tôn giáo khác
như Khổng, Phật, Lão giáo không dùng. Cứu rỗi là kéo ra khỏi sự dữ, sự
hư mất do tội lỗi, và phục hồi sự toàn vẹn. Cứu chuộc là giải thoát bằng
chuộc lại, tìm cách lấy lại cái mình đã làm mất, hoặc đền bù để khỏi bị
phạt. Cứu rỗi có nghĩa chung là cứu vớt linh hồn, còn cứu chuộc là cứu
rỗi bao gồm việc phải trả giá. Vì thế, Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô cứu
rỗi, nhưng chỉ mình Đức Giêsu Kitô cứu chuộc. Hai từ này có nghĩa sâu
sắc diễn tả đầy đủ rõ ràng công trình cứu rỗi của Thiên Chúa.Thế mà gần
đây có nhiều người coi cứu rỗi cứu chuộc là tiếng nôm cổ, do các cố các
cụ đặt ra, và thay bằng cứu độ, lấy cớ là tiếng mới, ngắn gọn, nhiều
người dùng. Thực ra, theo Linh mục Huỳnh Trụ, cứu độ là từ Hán Việt, bên
Phật giáo thường dùng, có nghĩa là cứu giúp như đưa qua từ bờ mê sang
bờ ngộ, không bao hàm trọn vẹn ý nghĩa cứu rỗi và cứu chuộc mà chỉ có
Thiên Chúa mới làm được. Vì thế, không nên chọn cái tưởng là mới là hay
mà chỉ có ý nghĩa hạn hẹp chung chung, để bỏ hai từ then chốt trong Kitô
giáo (xem Tìm hiểu Từ vựng Công giáo của Linh mục Huỳnh Trụ).
2.2 Phúc
Âm về Đức Giêsu Kitô, là lời rao giảng của các Tông đồ và môn đệ về Đức
Giêsu Kitô và ơn cứu rỗi cứu chuộc do Người mang đến, nghĩa là bao gồm
Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô như vừa kể ở trên đồng thời cả cuộc đời Đức
Giêsu Kitô từ khi giáng sinh, sống ở Nazareth, đi giảng Phúc Âm, chịu tử
hình thập giá, sống lại và về trời, sống với Chúa Cha, với Chúa Thánh
Thần và với mọi người.
2.3
Phúc Âm là những sách ghi chép lại cuộc đời và giáo huấn của Đức Giêsu
Kitô. Ta biết việc Đức Giêsu Kitô sống trên trần gian không có ai ghi
chép lại, nhưng các tông đồ và các môn đệ sống chung với Người đã ghi
nhớ tất cả và loan báo truyền thông cho mọi người. Khi các ngài về già,
một số môn đệ đã thu thập những gì được truyền miệng để ghi chép lại
thành sách, truyền miệng bằng tiếng Aram và Hi Lạp, còn sách thì trước
hết là sách Phúc Âm theo Thánh Maccô, rồi đến Phúc Âm theo Thánh
Matthêu, Phúc Âm theo Thánh Luca, sau hết là Phúc Âm theo Thánh Gioan,
viết bằng tiếng Hi Lạp.
Tóm lại, Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô và
các sách Phúc Âm làm thành nền tảng duy nhất không thể thay đổi để Giáo
hội loan báo cho mọi người khắp thế giới cho đến khi Đức Giêsu Kitô lại
đến, bởi vì Đức Giêsu Kitô vừa là Phúc Âm vừa là người loan báo Phúc Âm
của Thiên Chúa vốn đã được loan báo trong lịch sử Israel qua các ngôn
sứ, và được hứa trong Kinh Thánh, Đức Giêsu Kitô là tâm điểm của Phúc
Âm, là người đầu tiên và vĩ đại nhất của việc Phúc-Âm-hoá: Phúc Âm của
Người và chính Người là một.
3. Phúc-Âm-hoáPhúc-Âm-hoá
là cụm từ dịch tiếng Latinh (evangelisatio), xuất hiện từ thế kỷ XIX
bên Âu châu, được Công đồng Vatican II sử dụng, với ý nghĩa là loan báo,
truyền giảng, đem Phúc Âm đến cho tất cả mọi tầng lớp nhân loại, để nhờ
ảnh hưởng của Phúc Âm biến đổi nhân loại từ bên trong, và làm cho nhân
loại nên mới (xem Tông huấn Loan báo Phúc Âm của Đức Phaolô VI). Nói
cách khác, đó là hoạt động đem các giá trị Phúc Âm thấm nhuần vào các
thực tại trần thế như men trong bột, để biến đổi mọi sự cho phù hợp với
tinh thần Phúc Âm. Nếu đến thế kỷ XIX mới dùng cụm từ này với ý nghĩa
vừa kể, thì từ thời Đức Giêsu Kitô và các tông đồ cho đến thế kỷ XIX có
Phúc-Âm-hoá không? Chắc chắn là có, và Đức Giêsu Kitô cũng như các tông
đồ đã Phúc-Âm-hoá một cách tuyệt vời, chỉ chưa được gọi bằng cụm từ
Phúc-Âm-hoá mà thôi. Hơn nữa việc Phúc-Âm-hoá của Đức Giêsu Kitô và các
tông đồ còn là nền tảng, là mẫu mực cho mọi cuộc Phúc-Âm-hoá của Giáo
hội cho đến ngày Đức Giêsu Kitô lại đến. Ta cần nắm vững việc
Phúc-Âm-hoá này để có thể hiểu một cách dễ dàng tại sao lại phải Tân
Phúc-Âm-hoá ngày nay.
3.1 Việc Phúc-Âm-hoá của Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu Kitô đã Phúc-Âm-hoá bằng cách nào, cho ai, ở đâu và kết quả ra sao?
a/
Phúc-Âm-hoá bằng dùng ngôn ngữ bình dân (tiếng Aram), dễ hiểu, với các
dụ ngôn rút ra từ các chuyện trong đời thường, vừa đơn sơ dễ hiểu, vừa
thâm thúy sâu sắc, để loan báo Phúc Âm cho mọi người.
b/
Phúc-Âm-hoá bằng toàn bộ đời sống của Người (từ khi sinh ra đến khi chịu
chết, sống lại, về trời) đối với Thiên Chúa và mọi người:
– Với
Thiên Chúa: người luôn hiệp thông trong vâng phục hoàn toàn ý Chúa Cha,
luôn liên hợp với Chúa Thánh Thần để cùng hoạt động cho Phúc Âm. Chính
sự liên hợp với Chúa Thánh Thần tạo nên cái mà nhà thần học Paul Tihon
gọi là năng động của Phúc Âm. Năng động là sức mạnh sống động có khả
năng tác động tích cực làm biến đổi thế giới chung quanh. Năng động của
Phúc Âm là sức mạnh sống động của Đức Giêsu Kitô liên hợp với Chúa Thánh
Thần, giống như ánh sáng, muối men có khả năng biến đổi, nhân văn hóa
và siêu nhiên hóa cả cá nhân lẫn xã hội (xem Paul Tihon, Pour libérer
L’Evangile, trang 106).
– Với mọi người: Chính nhờ năng động của
Phúc Âm mà Đức Giêsu Kitô đi bước trước đến với mọi người, ưu tiên cho
người nghèo, bệnh tật, đau khổ, bị gạt ra bên lề xã hội, để cảm thông,
chia sẻ, chữa lành, phục vụ họ. Đức Giêsu Kitô sống hiền lành, khiêm
nhường, khó nghèo, không kỳ thị ai. Người còn tín nhiệm chọn gọi một số
người làm tông đồ, lập thành Giáo hội của Người để cộng tác như bạn hữu
của Người. Cuối cùng Người hiến thân chịu chết trên thập giá như hiến tế
cứu chuộc toàn thể nhân loại.
c/ Đức Giêsu Kitô đã Phúc-Âm-hoá
người Do Thái là dân riêng của Thiên Chúa trước hết, nhưng cũng muốn
Phúc-Âm-hoá tất cả mọi người mà Người gặp trên đất Palestin, những
người có thiện cảm cũng như những người chống đối và thù nghịch.
d/
Kết quả việc Phúc-Âm-hoá của Người là biến đổi nhiều người thành tông
đồ, thành môn đệ trong Giáo hội Người, tin theo Người và Phúc Âm của
Người, sống theo lối sống của Người với Thiên Chúa với mọi người, sẵn
sàng sống chết để làm chứng về Người, và tiếp nối sứ vụ Người trao cho.
Nhưng quan trọng và cao quý hơn hết là Đức Giêsu Kitô làm vinh danh Chúa
Cha, cứu chuộc mọi người mọi vật sinh ra trên trần, từ khởi thuỷ cho
đến tận thế. Việc Phúc-Âm-hoá của Người đã được ghi chép trong các sách
Phúc Âm.
3.2 Việc
Phúc-Âm-hoá của các tông đồ và môn đệ đầu tiên. Nhận huấn lệnh đi khắp
thế giới để Phúc-Âm-hoá, các ngài Phúc-Âm-hoá thế nào, cho ai, ở đâu và
kết quả thế nào?
a/ Các ngài Phúc-Âm-hoá bằng loan báo Phúc Âm
của Đức Giêsu Kitô cùng với Phúc Âm về Đức Giêsu Kitô nghĩa là gồm cả
cuộc đời của Đức Giêsu Kitô trên trần gian. Phúc-Âm-hoá bằng can đảm
mạnh dạn đi loan bao Phúc Âm cho muôn dân, biến đổi họ thành môn đệ Đức
Giêsu Kitô. Nhờ năng động do Thánh Thần của Đức Giêsu Kitô ban cho, các
ngài tìm lời lẽ thích hợp với dân chúng để họ dễ hiểu, hội nhập Phúc Âm
vào văn hoá của họ như diễn từ của Thánh Phaolô ở Athen (Cv 17,22-32).
Lúc đầu dùng tiếng Aram, về sau ghi chép lời giảng thành sách Phúc Âm,
rồi còn ghi chép công việc Phúc-Âm-hoá của các ngài trong sách Công vụ
Tông đồ và trong các thư gửi các giáo đoàn.
b) Phúc-Âm-hoá bằng
chính đời sống noi gương Đức Giêsu Kitô để - sống với Thiên Chúa, cùng
nhau chuyên cần cầu nguyện, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, ca tụng Thiên
Chúa (Cv 2,42.47) - sống với mọi người theo lối sống của Đức Giêsu
Kitô, hòa nhập với mọi người, luôn hiệp thông với nhau, để của chung rồi
chia sẻ cho nhau tùy theo nhu cầu (Cv 2,42-44) với thái độ hiền lành,
khiêm tốn, khó nghèo “sống như Chúa Kitô sống trong mình” (Gl 2,20). Đến
cuối đời hầu hết các ngài đã tử vì đạo để làm chứng cho Phúc Âm và trở
thành hạt giống trổ sinh các Kitô hữu.
c) Phúc-Âm-hoá người Do
Thái và cả những người không phải Do Thái như Hi Lạp, Rôma hay các dân
tộc khác ở đất Palestin. Các ngài tuyên xưng đức tin trước giáo quyền Do
Thái, dù bị cấm cách bách hại, và cũng làm chứng về Phúc Âm cho cả các
nhà cầm quyền Rôma dù bị cầm tù và phải tử vì đạo.
d) Kết quả
việc Phúc-Âm-hoá của các ngài là biến đổi được nhiều người trở thành
Kitô hữu (bạn của Đức Giêsu Kitô) khiến cộng đoàn ở Giêrusalem mỗi ngày
một đông. Khi bị cấm cách, các ngài di tản đến các vùng chung quanh rồi
lan tràn khắp đế quốc Rôma để lập nên rất nhiều cộng đoàn Kitô hữu. Mặc
dù việc Phúc-Âm-hoá của các ngài bị giáo quyền Do Thái và nhà cầm quyền
Rôma cấm đoán bách hại, nhưng chính nhờ thế mà Phúc Âm được loan báo
khắp đế quốc Rôma. Việc Phúc-Âm-hoá này được ghi chép trong sách Công vụ
các tông đồ, trong các thư gửi các giáo đoàn và trong sách Khải huyền.
Tất cả cùng với 4 sách Phúc Âm làm thành sách Tân ước, được viết bằng
tiếng Hi Lạp, để mọi người đã được nghe còn có thể đọc nữa.
3.3 Việc
Phúc-Âm-hoá của Giáo hội. Đức Giêsu Kitô khi ở trần gian đã Phúc-Âm-hoá
trong 33 năm, sau đó các tông đồ và môn đệ tiếp tục sứ vụ của Người để
Phúc-Âm-hoá đến hết thế kỷ I. Từ thế kỷ II Giáo hội Phúc-Âm-hoá cho đến
ngày nay trong suốt 20 thế kỷ, thời gian vừa dài vừa đầy những biến
chuyển mới lạ, cần chia làm nhìều thời kỳ để tìm hiểu thấu đáo hơn.
Xin chia ra 3 thời kỳ:
– Thời kỳ 1 từ thế kỷ II đến thế kỷ V
– Thời kỳ 2 từ thế kỷ V đến thế kỷ XV
– Thời kỳ 3 từ thế kỷ XV đến nay
- Thời kỳ 1, từ thế kỷ II đến thế kỷ V
Những ai chủ động trong việc Phúc-Âm-hoá, Phúc-Âm-hoá bằng cách nào, cho ai, ở đâu và kết quả như thế nào?
a/
Giáo Hội loan báo Phúc Âm do sáng kiến của các cá nhân là môn đệ của
các tông đồ đã được Phúc-Âm-hoá và lãnh nhận năng động của Phúc Âm, để
tiếp tục loan báo Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô cùng với Phúc Âm về Đức
Giêsu Kitô như các tông đồ đã làm. Phúc Âm này được ghi chép thành sách
(thế kỷ II) là sách Tân Ước bằng tiếng Hi Lạp. Đến thế kỷ thứ IV, Thánh
Hiêrônymô lại dịch sang tiếng Latinh để Kitô hữu Rôma có thể dùng. Giáo
hội còn tóm lược giáo lý trong Kinh Tin Kính, Lạy Cha, và trong các bí
tích Rửa Tội, Thêm Sức, Thánh Thể. Giáo hội tiếp xúc với mọi người tùy
theo hoàn cảnh sinh sống và nghề nghiệp. Đến thế kỷ thứ IV khi Giáo hội
được tự do hoạt động thì các mục tử tổ chức các khóa dự tòng, dạy giáo
lý cho người xin vào đạo để khai tâm cho họ.
b/ Giáo hội
Phúc-Âm-hoá bằng đời sống noi gương Đức Giêsu Kitô và các tông đồ, để: -
đối với Chúa vẫn giữ truyền thống các tông đồ, là chuyên cần cầu
nguyện, suy gẫm Phúc Âm, lãnh các bí tích, - đối với nhau và với mọi
người là luôn hiệp thông trong tình huynh đệ, chia sẻ cho nhau trong các
cuộc lạc quyên, cứu trợ (xem 2 Cr 8,1-9,15), sống hiền lành, khiêm tốn,
khó nghèo và sẵn sàng làm chứng cho Phúc Âm bằng tử đạo như các Kitô
hữu đi trước.
c/ Giáo hội Phúc-Âm-hóa những người sống chung
quanh cộng đồng mình, người buôn bán hoặc làm nghề với mình, cả những nô
lệ hoặc địa chủ và công chức của đế quốc Rôma. Nhưng Giáo hội bắt đầu
gặp các tà giáo gây chia rẽ (xem sách Khải huyền đoạn 12 và 13).
d/
Kết quả: Giáo hội có sách Phúc Âm bằng tiếng Hilạp cho người Hilạp,
bằng tiếng Latinh cho người Rôma để học Phúc Âm thường xuyên hơn, Giáo
hội biết hội nhập Phúc Âm vào văn hoá Hilạp Rôma, tổ chức cộng đoàn có
Đức Giáo hoàng đầu tiên là Linô kế vị Thánh Phêrô, các giám mục, linh
mục, phó tế hướng dẫn các Kitô hữu, có cơ chế để cử hành phụng vụ Thánh
Thể. Nhất là Giáo hội có các giám mục gương mẫu về thánh thiện và khôn
ngoan, gọi là các giáo phụ, dạy dỗ về Kinh Thánh, giáo lý, bảo vệ đức
tin chống các bè rối mới nổi lên, như Thánh Giustinô, Irênê, Augustinô…
các ngài là những nhà thần học đầu tiên. Điều đáng ghi nhớ là Giáo hội
vẫn đang sống như “Giáo hội hầm trú” vì trung thành với Phúc Âm, và đã
có cả trăm ngàn Kitô hữu tử vì đạo. Kết quả độc đáo hơn cả là Giáo hội
đã Phúc-Âm-hoá được hoàng đế Rôma là Constantinô, nên Giáo hội được tự
do Phúc-Âm-hoá trên toàn đế quốc Rôma, về sau hoàng đế Rôma còn chọn
Kitô giáo làm quốc giáo. Nhưng các bè rối nổi lên làm khó cho Giáo hội,
đó là dấu hiệu cho thấy Phúc Âm bắt đầu bị bóp méo sai lệch.
- Thời kỳ 2, từ thế kỷ V đến thế kỷ XV
Các
bè rối phát triển, Giáo hội phải họp Công đồng để giải quyết (Công đồng
Nixê và Ephêxô). Không còn được tử đạo, Kitô hữu chuyển sang lý tưởng
tu dòng (Thánh Antôn tu rừng, Thánh Bênêđictô). Các tu viện với các tu
sĩ đã trở nên những trung tâm nuôi dưỡng tinh thần Phúc Âm và văn hóa
trong các miền nông thôn. Trong khi đó nhiều quân mandi là di dân xâm
chiếm đế quốc Rôma đang chia rẽ, cuối cùng đế quốc Rôma sụp đổ. Giáo hội
đã Phúc-Âm-hoá trong thời kỳ này thế nào, bằng cách nào, cho ai, và kết
quả thế nào?
a/ Giáo hội luôn đứng vững để Phúc-Âm-hoá xã hội,
đang khi đế quốc Rôma sụp đổ dưới sức mạnh của quân mandi. Giáo hội nhờ
các mục tử sáng suốt, nhất là nhờ các tu viện có các tu sĩ sinh sống,
Giáo hội vẫn duy trì được truyền thống và năng động của Phúc Âm từ thời
các tông đồ để củng cố đức tin cho những người đã theo đạo, lấy Phúc Âm
để cảm hóa giáo dục và Phúc-Âm-hoá dân mandi, rồi còn mở rộng sang các
nước Âu châu. Vì dân mandi không biết tiếng Hilạp Latinh, lại theo đạo
tập thể nên không còn tổ chức các khoá dự tòng.
b/ Giáo hội
Phúc-Âm-hoá bằng tổ chức đời sống với Chúa và với mọi người. Giáo hội
quy định những việc làm cụ thể với Thiên Chúa như đọc kinh sáng trưa
chiều (Kinh Truyền Tin), dự thánh lễ, ăn chay kiêng thịt, đi hành hương,
rước kiệu, học thuộc kinh Lạy Cha, kinh Tin Kính, kinh 10 điều răn Đức
Chúa Trời và 6 điều răn Hội Thánh, kinh Tám Mối Phúc Thật, kinh Thương
người có 14 mối. Với mọi người Giáo hội tổ chức làm việc từ thiện giúp
cô nhi quả phụ, chia sẻ cứu trợ người nghèo, giáo dục binh lính biết trừ
gian diệt bạo, giáo dục người dân biết buôn bán hay lao động theo lương
tâm nghề nghiệp.
c/ Giáo hội Phúc-Âm-hoá mọi hạng người trong xã
hội: các Kitô hữu đạo gốc, các dự tòng, tân tòng, đa số là dân mandi
không biết chữ, các viên chức nhà nước, các người buôn bán và làm các
nghề.
d/ Kết quả: Trong mấy thế kỷ đầu từ thế kỷ V đến thế kỷ
XIII, Giáo hội còn giữ được truyền thống các tông đồ để Phúc-Âm-hoá,
nhất là nhờ các tu viện và các tu sĩ có mặt khắp nơi, đã cảm hoá và biến
đổi con người cũng như xã hội. Rồi khi Giáo hội tổ chức đời sống đối
với Chúa, với nhau và với mọi người bằng thực hành những việc làm cụ
thể, rất thích hợp với đa số là dân mandi thíếu học thức, thì việc
Phúc-Âm-hoá phát triển rất mạnh đến nỗi sang thế kỷ XII và XIII cả Âu
châu trở thành một Thế giới Kitô giáo. Tuy nhiên, sau khi Giáo hội hoà
nhập với chế độ quân chủ phong kiến, giáo sĩ được nhà nước cho hưởng lộc
tiền bạc đất đai để xây cất nhà thờ nhà xứ, nên sao nhãng việc
Phúc-Âm-hoá; còn giáo dân không được giảng dạy giáo lý, lại không có chữ
nghĩa để đọc Kinh Thánh và Phúc Âm. Đang khi đó ngoài xã hội, vào thế
kỷ XV, phong trào Phục hưng các giá trị nhân văn nổi lên, đề cao tự do
cá nhân, muốn tục hoá Giáo hội, dửng dưng với Thiên Chúa. Đó là dấu hiệu
virus phong kiến đã phát triển mạnh, giáo sĩ và vua chúa tranh giành
đất đai danh vọng, xã hội chia rẽ, khiến cho Thế giới Kitô giáo tan rã.
Mặc dù có hai vị Thánh là Phanxicô Atxidi và Đôminicô đã lập hai dòng
lớn để đổi mới, nhưng ảnh hưởng có giới hạn. Sang thế kỷ XV và XVI giáo
hoàng, giám mục, tu sĩ mải mê lo những chuyện trần thế, việc buôn thần
bán thánh (ân xá) và gương xấu đã đạt mức kỷ lục… Có thể rút ra bài học
lịch sử là: khi Xêda phục vụ Giáo hội thì thường gây nhiều nguy hại cho
Giáo hội hơn là khi bách hại. Càng xa rời Phúc Âm của Đức Giêsu Kitô,
Giáo hội càng suy sụp.
- Thời kỳ 3, từ thế kỷ XV đến nay
Thời kỳ này có rất nhiều biến cố và hoàn cảnh làm biến đổi cả Giáo hội lẫn xã hội. Xin tóm tắt:
–
Năm 1520, Linh mục Lutêrô cải cách Giáo hội đang suy sụp không đúng
theo truyền thống các tông đồ, ly khai khỏi Giáo hội và lập Giáo hội Tin
Lành.
– Năm 1545, Giáo hội họp Công đồng Trentô để Phúc-Âm-hoá
lại nội bộ Giáo hội theo tinh thần Phúc Âm và truyền thống các tông đồ.
– Khi khám phá Mỹ châu, Phi châu, Á châu, Úc châu, Giáo hội sai các tu sĩ giáo sĩ đi truyền giáo cho họ (thế kỷ XV- XVI).
–
Từ thế kỷ XVIII là thế kỷ Ánh sáng, thế giới Âu châu biến đổi mạnh theo
hướng đã bắt đầu từ thời Phục hưng (thế kỷ XV): đề cao cá nhân, khoa
học, lý trí, tự do, muốn thế tục hoá, muốn tách khỏi Kitô giáo và tách
khỏi cả Thiên Chúa.
– Giáo hội đã cải cách đổi mới suốt 400 năm,
từ Công đồng Trentô đến Công đồng Vatican II, nhưng thần học chưa theo
kịp đà phát triển trí thức, khoa học, kỹ nghệ của thế giới. Mặc dù Công
đồng Vatican II đã cập nhật hóa Giáo hội nhưng sau Công đồng gần 50 năm
việc cập nhật hoá vẫn chưa thấm nhập vào Dân Thiên Chúa, chưa ảnh hưởng
tích cực đến thế giới. Trước những hoàn cảnh biến đổi trên, Giáo hội đã
Phúc-Âm-hoá thế nào, bằng cách nào, cho ai, ở đâu và kết quả ra sao?
a/
Linh mục Lutêrô đã cải cách Giáo hội vì nhận ra rằng Giáo hội đã sống
xa rời Kinh Thánh, không quan tâm học và dạy giáo lý, nên dễ chạy theo
thế tục. Vì thế, ngài là người đầu tiên dịch Kinh Thánh ra tiếng địa
phương, soạn sách giáo lý cho người lớn và trẻ em. Nhưng ngài đã đi
trệch đường, không đúng với truyền thống các tông đồ. Còn Công đồng
Trentô đã Phúc-Âm-hoá lại các giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân bằng quy định kỷ
luật, soạn sách lễ, sách các giờ Kinh, sách các bí tích, sách giáo lý,
giúp các cha xứ dạy giáo lý, nhưng không dịch Kinh Thánh (mãi tới Công
đồng Vatican II mới có Kinh Thánh bằng tiếng địa phương). Khi khám phá
các châu lục mới bên ngoài Âu châu, Giáo hội sai các tu sĩ các Dòng
Phanxicô, Đôminicô, Dòng Tên… đến với họ để Phúc-Âm-hoá.
b/ Giáo
hội không chỉ Phúc-Âm-hoá bằng loan báo Phúc Âm mà còn Phúc-Âm-hoá bằng
chính đời sống với Chúa và với mọi người theo truyền thống các tông đồ.
Giáo hội tổ chức cầu nguyện, lãnh các bí tích, sống hiền lành, khó
nghèo, Giáo hội cũng hội nhập Phúc Âm vào xã hội Âu Châu, và vào cả các
nước trên khắp thế giới.
c/ Giáo hội Phúc-Âm-hoá các Kitô hữu của
mình, dân chúng sống ở khắp Âu châu, và còn lo Phúc-Âm-hoá cho nhiều
dân tộc ở ngoài Âu châu, sống trong những vùng đất mênh mông trên khắp
các lục địa mới khám phá. Đặc biệt sang thế kỷ XVIII trở đi, Giáo hội
phải đối mặt với những người theo thế kỷ Ánh sáng, chủ trương tục hoá,
chống lại Giáo hội. Thế kỷ gần đây khoa học, kỹ thuật còn phát triển mau
chóng vượt bậc, và thế giới còn được toàn cầu hoá.
d/ Kết quả:
Cuộc cải cách của Linh mục Lutêrô đã trệch ra khỏi truyền thống của các
tông đồ, kéo theo một nửa số Kitô hữu Âu châu (lúc đó khoảng 40 triệu)
ly khai khỏi Giáo hội, lấy tên là Giáo hội Tin Lành, gây chia rẽ trong
Giáo hội cho tới ngày nay chưa hàn gắn được. Cuộc cải cách của Công đồng
Trentô đã giúp Giáo hội hồi phục nếp sống theo Phúc Âm, và được duy trì
suốt 400 năm cho tới Công đồng Vatican II. Khi các nhà truyền giáo được
sai đến muôn dân ở các châu lục mới, các ngài đã đem đến nếp sống Kitô
giáo theo văn hoá Âu châu để truyền lại cho các dân như Ấn Độ, Trung
Hoa, Nhật Bản, Việt Nam. Các dân này đã có sẵn một tôn giáo hoặc tín
ngưỡng từ lâu đời, như Phật giáo, đạo ông bà… vì thế, việc truyền giáo
khó phát triển (đạo của Tây). Cho tới nay ở Á châu mới chỉ có 3% là Công
giáo. Sang thế kỷ XVIII, thế kỷ Ánh sáng với phong trào đề cao tự do cá
nhân, đề cao lý trí và khoa học,việc tục hoá càng mạnh, nhiều Kitô hữu
đã tách rời khỏi Giáo hội và cả Thiên Chúa nữa. Còn Giáo hội chưa kịp
phát triển thần học để Phúc-Âm-hoá các hoàn cảnh và tình huống mới đó.
Nên từ việc Giáo hội kết án nhà khoa học Galilê là lạc đạo khi ông quả
quyết trái đất xoay quanh mặt trời (1633), (mãi đến thời Đức Gioan
Phaolô II năm 1992 mới phục hồi danh dự cho ông), cho đến việc Giáo hội
không ngăn cản được 2 nước theo Kitô giáo làm cách mạng: Pháp (1789) và
Nga (1917); và cũng không ngăn cản được nhiều nước theo Kitô giáo gây ra
hai cuộc thế chiến 1914 – 1918 và 1939 – 1945, giết chết cả 70 triệu
người. Sau 2 thế chiến còn tiếp tục có chiến tranh lạnh giữa 2 khối tự
do và cộng sản. Uy tín Giáo hội với thế giới giảm sút, nhiều Kitô hữu
rời bỏ Kitô giáo hoặc theo các giáo phái khác. Mặc dù Công đồng Vatican
II (1965) giúp Giáo hội cập nhật với thế giới, tuy nhiên gần 50 năm sau
Công đồng, việc cập nhật hoá tiến triển chậm chạp. Dịp Năm Thánh 2000,
Đức Gioan Phaolô II nhìn nhận rằng việc Phúc-Âm-hoá vẫn còn ở giai đoạn
đầu, và kêu gọi toàn Giáo hội phải khẩn cấp Tân Phúc-Âm-hoá. Từ thế kỷ
XX cho tới nay, thế giới còn phát triển khoa học và kỹ nghệ hạt nhân,
được ứng dụng vào y tế (máy hiển vi điện tử), giao thông (máy bay siêu
thanh), truyền thông (vi tính, điện thoại di động…), và thế giới đang
được toàn cầu hoá nữa.
4. Tân Phúc Âm hoáQua
ba số 1, 2, 3 ta đã hiểu Phúc-Âm-hoá là gì, rồi xem kết quả việc
Phúc-Âm-hoá từng thời kỳ ta cũng dễ dàng nhận ra tại sao ngày nay phải
Tân Phúc-Âm-hoá. Đức Giêsu Kitô đã dạy ta một nguyên tắc để phán đoán là
“cứ xem quả thì biết cây” (Mt 12,33). Cây không còn sinh hoa trái tốt
là cây có vấn đề. Ta cũng biết tâm điểm của Phúc-Âm-hoá là gặp gỡ chính
Đức Giêsu Kitô để Phúc Âm của Người biến đổi con người thành con người
được Phúc-Âm-hoá. Có được Phúc-Âm-hoá rồi, ta mới có thể Phúc-Âm-hoá
người khác. Đức Giêsu Kitô và Phúc Âm của Người thì không biến đổi bao
giờ: “Đức Giêsu Kitô vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi
đến muôn đời” (Dt 13,8); nhưng thế giới và con người sống trong thế
giới thì luôn đổi thay. Do đó, Tân Phúc-Âm-hoá không phải là loan báo
một Phúc Âm mới mà là Phúc-Âm-hoá một cách mới mẻ, nói cho cụ thể là
phải đổi mới người Phúc-Âm-hoá để họ có một nhiệt tình mới, để họ biết
dùng những phương pháp mới, để họ có thể trình bày Phúc Âm một cách mới
mẻ phù hợp với con người của thời đại hôm nay. Người của thời đại hôm
nay tin vào kinh nghiệm và việc làm hơn là lý thuyết lý luận, họ là
người duy vật nên nhạy cảm với những gì họ thấy được, đụng chạm sờ mó
được. Đức Giêsu Kitô và năng động của Phúc Âm luôn ở cùng Giáo hội cho
đến ngày tận thế, giúp Giáo hội Tân Phúc-Âm-hoá, Giáo hội luôn luôn phải
cải cách (Ecclesia semper reformanda), mà Giáo hội là các Kitô hữu. Vậy
Kitô hữu muốn Tân Phúc-Âm-hoá để thông truyền đức tin Kitô giáo thì
chính Kitô hữu phải được Tân Phúc-Âm-hoá trước hết, có thế mới hòng
Phúc-Âm-hoá con người và thế giới được.
Để kết
Chuyện
kể là một triết gia Ấn Độ đã nhìn lại quãng đời của mình như sau: Lúc
còn trẻ tôi là một người có đầu óc cách mạng. Lời cầu nguyện duy nhất
của tôi dâng lên Thượng Đế là: “Lạy Chúa, xin ban cho con nghị lực để
thay đổi thế giới.” Đến tuổi trung niên, tôi mới nhận thấy rằng nửa đời
tôi đã qua đi mà tôi chưa thay đổi được một người nào. Lúc đó, tôi mới
cầu nguyện với Thượng Đế: “Lạy Chúa xin ban cho con được ơn biến đổi tất
cả những người con gặp gỡ hằng ngày, nhất là gia đình con, bạn bè con.
Và như vậy là đủ cho con mãn nguyện rồi.” Nhưng giờ đây, tóc đã bạc,
răng đã long, ngày tháng còn lại chỉ đếm trên đầu ngón tay, tôi mới nhận
thức rằng tôi đã khờ dại biết chừng nào. Giờ này, tôi chỉ biết cầu
nguyện như sau: “Lạy Chúa, xin ban cho con được ơn thay đổi chính con.”
Nếu tôi biết cầu nguyện như thế này ngay từ lúc đầu thì tôi đã không phí
phạm quãng đời đã qua.
Khoảng 600 năm trước Đức Giêsu Kitô, Đức
Khổng Tử đã dạy các đệ tử của ngài phải tu thân thì mới tề gia được, có
tề gia thì mới trị quốc được… Đức Giêsu Kitô đã tự nguyện xuống thế làm
người cách đây khoảng 2000 năm để Phúc-Âm-hoá loài người và thế giới
bằng chu toàn 3 sứ vụ là: tư tế, ngôn sứ, vương giả. Tư tế là người hiến
thân chuộc tội và cầu thay nguyện giúp cho đời; ngôn sứ là người loan
báo cho đời biết Thiên Chúa cũng như biết mình, và tố cáo mọi tội ác bất
công; vương giả là người làm tôi tớ phục vụ cho hạnh phúc mọi người như
Người dạy (x. Mt 20,26-28). Kitô hữu là bạn hữu của Đức Giêsu Kitô, dù
là ai cũng phải Phúc-Âm-hoá mình sao cho giáo hoàng ra giáo hoàng, giám
mục ra giám mục, linh mục ra linh mục, tu sĩ ra tu sĩ, giáo dân ra giáo
dân, để tự nguyện chu toàn 3 sứ vụ cho tốt. Nếu chỉ là tư tế biết đọc
kinh xem lễ theo đúng “chữ đỏ” mà không hiệp thông với Đức Giêsu Kitô
hiến mình cho Thiên Chúa và mọi người; nếu chỉ là ngôn sứ giảng thuyết
rất hùng hồn mà không loan báo Phúc Âm và không dám tố cáo tội ác bất
công; nếu chỉ là vương giả để sống như ông vua độc tài quan liêu, xa
hoa, hưởng thụ, vô cảm với người nghèo khổ bệnh tật bị áp bức… thì phải
cầu xin Thiên Chúa đổi thay chính mình trước. Thánh Gioan Tông đồ trong
sách Khải huyền đã khuyên Kitô hữu mua thuốc đau mắt để nhỏ mắt cho thấy
được (Kh 3,13). Nhà văn Anh có tinh thần công giáo ngày nay đã viết một
câu rất ngắn gọn sâu sắc: Bác ái phải bắt đầu từ bản thân, từ nhà mình
trước (charity begins at home). Vì thế, dù bây giờ còn trẻ, đã lớn, hay
đã già, không bao giờ tu thân là muộn. Người Anh có câu châm ngôn rất
hay là “muộn còn hơn không” (better late than never).
CÂU HỎI THẢO LUẬN1. Tân Phúc-Âm-hoá có phải là làm cho Phúc Âm biến đổi thành Phúc Âm mới không? Tại sao? Nếu không phải thì là đổi mới cái gì?
2. Những nguyên nhân chính nào khiến giáo hội phải khẩn cấp Tân Phúc-Âm-hoá?
3. Bạn có thể làm gì để giúp gia đình bạn tham gia việc Tân Phúc-Âm-hoá?
4. Bạn có thể làm gì để giúp các giáo dân trong giáo xứ bạn tham gia việc Tân Phúc-Âm-hoá?
5. Bạn hãy cắt nghĩa vắn tắt: sứ vụ Tư tế, sứ vụ Ngôn sứ và sứ vụ Vương giả là gì?
6.
Đức Giêsu Kitô đã trao cho mỗi Kitô hữu ba sứ vụ kể trên, bản thân bạn
đã làm gì để thi hành các sứ vụ đó nơi gia đình và giáo xứ bạn?
7. Bạn tìm hiểu xem Giáo hội đã Phúc-Âm-hoá thế nào mà cả Âu châu biến đổi thành thế giới Kitô giáo?
8. Bạn tìm hiểu xem tại sao thế giới Kitô giáo đã tan rã?
9. Bạn tìm hiểu xem việc Phúc-Âm-hoá các nước Á châu đã gặp phải những khó khăn nào khiến không được phát triển?
10.
Bạn thấy từ thế kỷ XVIII đến nay thế giới đã đổi mới như thế nào về
khoa học, kỹ thuật, giao thông, truyền thông… về toàn cầu hóa? Còn Giáo
hội đã có biến đổi gì?
[Bài này được soạn nhằm giúp các đoàn thể học hỏi về Tông huấn “Tân Phúc-Âm-hóa để thông truyền đức tin Kitô giáo” (2012)]-----------------------
Tài liệu tham khảo:
– Tông huấn “Tân Phúc Âm hoá để thông truyền đức tin Kitô giáo”, thành Vatican, 2012
– Théo, Le Temps de Jésus, Droguet-Ardant/Fayard, 1989
Chúa Nhật Truyền Giáo 2013
Linh mục Antôn Nguyễn mạnh Đồng
Nhà Hưu dưỡng Linh mục Cần Thơ