Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, trả lời phỏng vấn của Eglises d’Asie
WHĐ (08.07.2010) – Nhân sang Pháp để truyền chức phó tế cho một chủng sinh Giáo phận Thanh Hoá, Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh, Giám mục Thanh Hoá, Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, được bản tin Eglises d’Asie phỏng vấn.
Bài trả lời phỏng vấn của Đức cha Giuse đăng tại địa chỉ: http://eglasie.mepasie.org/asie-du-sud-est/vietnam/interview-exclusive-par-eglises-d2019asie-du-vice-president-de-la-conference-episcopale
Bản dịch bài phỏng vấn, được WHĐ đăng tải dưới đây, lược bỏ phần mở đầu, giới thiệu về Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh.
Các câu hỏi và trả lời phỏng vấn được dịch trọn vẹn.
* * *
Eglises d’Asie: Trong một cuộc phỏng vấn trước đây, Đức cha cho biết Năm Thánh kỷ niệm 350 năm lịch sử Giáo Hội tại Việt Nam có mối liên quan đặc biệt với giáo phận của Đức cha. Đức cha có thể cho biết, đến nay, các giai đoạn cử hành Năm Thánh có tác động nào đối với giáo dân trong giáo phận của Đức cha?
– Một trong những hoạt động nổi bật nhất của chương trình Năm Thánh được khai triển trong giáo phận của chúng tôi tại 6 trung tâm hành hương được lập ra nhân cơ hội này tại 6 giáo hạt. Mỗi giáo hạt đảm trách việc tổ chức một buổi cử hành chung cho toàn giáo phận. Giáo dân đến tham dự cử hành có cơ hội gặp gỡ và thắt mối dây liên kết chặt chẽ hơn với cộng đồng các giáo xứ bạn. Ngoài ra, chúng tôi mời gọi giáo dân của giáo phận chúng tôi đến thăm các trung tâm khác được thành lập trong các giáo phận lân cận. Do đó, Năm Thánh thật sự là một thời gian để các tín hữu Thanh Hoá sống mầu nhiệm hiệp thông trong Giáo Hội một cách cụ thể, một kinh nghiệm không còn giới hạn trong phạm vi nội bộ giáo phận nhưng vượt qua những ranh giới. Nhìn chung, các tín hữu đã nhiệt tình đón nhận Năm Thánh và cảm thấy rất hài lòng. Họ đã có cơ hội không những để nhìn lại quá khứ và tạ ơn Chúa, mà còn để khám phá, nhận ra khuôn mặt hữu hình của Giáo Hội. Đó là những nét tích cực của Năm Thánh đối với giáo phận của tôi.
Eglises d’Asie: Cao điểm của Năm Thánh có lẽ là Đại hội Dân Chúa sẽ được tổ chức vào tháng 11 ở Sài Gòn. Đại hội sẽ đón nhận và công bố nguyện vọng sâu xa của Giáo Hội tại Việt Nam hiện nay. Giáo phận của Đức cha đã chuẩn bị sự kiện trọng đại này như thế nào?
– Đại hội Dân Chúa sẽ được tổ chức vào ngày 24-11 tại Tổng Giáo phận Sài Gòn. Đây thực sự là cao điểm của Năm Thánh, một sự kiện có quy mô quốc gia, một cao điểm thực sự, ở chỗ sẽ tạo ra một diễn đàn cho tất cả các thành phần Dân Chúa tại Việt Nam có cơ hội lên tiếng nói và tiếng nói ấy được lắng nghe.
Giáo dân trong giáo phận chúng tôi vẫn duy trì nếp sống đạo truyền thống. Họ vâng phục hơn là phát biểu ý kiến và bày tỏ thái độ. Vì vậy, mặc dù đã được nghe nói nhiều về Đại hội Dân Chúa, họ cũng ngại phải tuyên bố hoặc phát biểu ý kiến gửi đến Đại hội. Có lẽ họ chờ nhận được sứ điệp Đại hội gửi đến cho mình và cho toàn thể cộng đoàn Hội Thánh hơn. Trong thực tế, chủ yếu sẽ có những đại biểu của giáo phận được trao nhiệm vụ chuẩn bị cho Đại hội. Ngoài giám mục giáo phận và cha tổng đại diện, sẽ có hai đại biểu giáo dân tham dự đại hội. Những đại biểu giáo dân được chọn lựa và có vai trò thu thập các ý kiến trong giáo phận rồi trình bày trong đại hội. Chúng tôi hy vọng đây sẽ là một cơ hội cho các tín hữu nhận ra họ có trách nhiệm và có vai trò thực sự trong Giáo Hội.
Eglises d’Asie: Năm Thánh đã được trù liệu và chuẩn bị trong một thời gian dài. Một sự kiện bất ngờ xảy đến, nhưng có lẽ cũng đoán trước được, đã gây xao động trong năm 2010, là sự từ nhiệm của Đức Tổng Giám mục Hà Nội và được Đức Thánh Cha chấp thuận vào ngày 13-5 vừa qua, thay thế ngài là Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, Chủ tịch Hội đồng Giám mục. Một số người đã bày tỏ công khai thái độ không hài lòng ngay trong những buổi lễ. Trên Internet, đã xuất hiện những lời cáo buộc và vu khống nặng nề. Thưa Đức cha, xin Đức cha thuật lại cho độc giả Pháp của Eglises d’Asie về nguyên nhân nào đã dẫn đến các sự kiện xảy ra trong năm 2008 và 2009?
– Nhiều người đã đặt câu hỏi: “Tại sao Đức Tổng Giám mục Kiệt ra đi?”. Đó có phải là do ý muốn của cá nhân Đức Tổng? Ngài có bị áp lực của Toà Thánh, của Hội đồng Giám mục, hoặc chính phủ Việt Nam không? Nhiều người nghĩ rằng sự ra đi của Đức TGM Ngô Quang Kiệt là một sự kiện mà Giáo Hội của Việt Nam phải lấy làm buồn. Đức Tổng Giám mục Kiệt đã là một lý do để Giáo Hội được hy vọng, là biểu tượng của lòng can đảm chống lại chế độ cộng sản. Theo tôi, trong những nhận định thuộc nhiều khuynh hướng khác nhau này, có một phần của sự thật, nhưng cũng có phần sai lầm. Tôi không phải là phát ngôn viên của Đức Tổng Giám mục Ngô Quang Kiệt, cũng không đại diện cho Hội đồng Giám mục. Tôi nói với tư cách cá nhân, và dựa vào những gì chính tôi nghe được từ Đức Tổng Giám mục Giuse Ngô Quang Kiệt. Ngài nói với tôi, một vài năm trước đây, khi còn ở Lạng Sơn, ngài đã bị mất ngủ và không thể nào chữa khỏi. Sau khi về Hà Nội, chứng mất ngủ vẫn tiếp tục. Ngài nhận thấy sức khoẻ của mình không được bảo đảm, và hơn thế nữa, ngày một xấu đi. Thế là ngài đã viết đơn xin từ nhiệm, một sự từ nhiệm do chính lương tâm ngài quyết định.
Ngài cảm thấy nếu cứ tiếp tục làm việc sẽ đem lại cho Tổng Giáo phận Hà Nội nhiều bất tiện hơn là ích lợi. Do đó, ngài rút ra kết luận mình phải ra đi vì lợi ích của giáo phận. Những suy nghĩ đến với tâm trí của Đức Tổng Giám mục, trong bối cảnh nổ ra các cuộc xung đột về đất đai, đầu tiên là Toà Khâm sứ tại Hà Nội vào cuối năm 2007, sau đó tại Giáo xứ Thái Hà. Chính vì vậy, có người đã nối kết những xung đột về đất đai với quyết định từ nhiệm của Đức Tổng. Theo những gì Đức Tổng Giám mục Kiệt đã nói với tôi, ngài không hề chịu bất cứ áp lực nào. Ngài đã quyết từ nhiệm vì nghĩ rằng sức khoẻ không cho phép ngài tiếp tục chu toàn một cách bình thường sứ vụ của mình. Và ngài đã khăng khăng xin từ nhiệm cho đến khi được Toà Thánh chấp nhận. Lúc đầu, ngài gửi đơn đến Bộ Loan báo Tin Mừng cho các Dân tộc (tức Bộ Truyền giáo), cho Đức Hồng y Ivan Dias. Sau một thời gian dài chờ được Bộ Truyền giáo trả lời, ngài đã đệ đạt thỉnh cầu của mình trực tiếp đến Đức Thánh Cha, và ngày 13-5-2010, ĐTC đã ra thông báo chấp thuận.
Eglises d’Asie: Vào ngày lễ nhậm chức của Đức tân Tổng Giám mục phó Hà Nội, ngày 7-5, giữa lúc cuộc biểu tình ngay trước Nhà thờ Chính toà bày tỏ sự ủng hộ đối với Đức cựu Tổng Giám mục, trong phát biểu đầu tiên, một cách nào đó, Đức cha nói Đức cha vui mừng vì cuối cùng các giám mục có thể nghe được tiếng nói của Dân Chúa. Đức cha vẫn luôn nghĩ như vậy?
– Ngày 7-5-2010, trong khi giáo tỉnh nói chung và Tổng Giáo phận Hà Nội nói riêng chào đón Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, người đã được Đức Thánh Cha bổ nhiệm làm Tổng Giám mục Phó Hà Nội, trong lễ nhậm chức của ngài, tôi nói lên suy nghĩ sau: đây là cơ hội để Hội đồng Giám mục lắng nghe tiếng nói của cộng đồng Dân Chúa được diễn tả chân thực và đầy đủ. Từ đó tôi thường được hỏi: “Đức cha tiếp tục nghĩ như vậy chứ?”. Tôi trả lời đúng như vậy, bởi hai lý do. Trước hết, vì chúng ta đã bước vào thời đại mới trong đó các phương tiện truyền thông và Internet ngày càng đóng một vai trò quan trọng. Có thể nghe được tiếng nói của các tín hữu và phát biểu của họ trong các điều kiện thuận lợi nhất, từ cả hai phía, từ những nhà lãnh đạo Giáo Hội cũng như từ ý kiến của công chúng. Hiện tượng này đặt ra yêu cầu cho các nhà lãnh đạo bất kỳ tổ chức nào, trong xã hội cũng như Giáo Hội, là phải biết lắng nghe và chăm chú lắng nghe.
Lý do thứ hai, thực tế trong thời đại chúng ta, các tín hữu có trình độ cao hơn về văn hoá, và qua các phương tiện truyền thông, họ có thể theo sát các tin tức, tiếp nhận nhiều thông tin về Giáo Hội. Cũng vậy, họ sẽ dễ dàng bày tỏ ý kiến. Vì hai lý do này, sẽ không có gì phải ngạc nhiên về các giám mục, tại Việt Nam và các nơi khác trên thế giới, đang quan tâm hơn việc lắng nghe tiếng nói của các tín hữu.
Eglises d’Asie: Có thể có lo ngại về sự chia rẽ nào đó trong hàng giáo sĩ cũng như giáo dân? Một số người nhìn thấy trong cuộc bút chiến xảy ra sau sự kiện Đức Tổng Giám mục Hà Nội từ nhiệm, rằng có một âm mưu từ nơi khác đến nhằm gây mất ổn định cho Giáo Hội vừa tạo ra được một hình ảnh ấn tượng về sự hiệp nhất qua lễ khai mạc Năm Thánh tại Sở Kiện. Đức cha nghĩ gì về cách giải thích này?
– Nếu câu hỏi có liên quan đến việc từ nhiệm của Đức Tổng Giám mục Kiệt, và do đó cho thấy rằng đó là do áp lực từ các nơi khác, chỉ có thể trả lời rằng chính Đức Tổng đã nói rõ việc này, đó là chính lương tâm ngài quyết định và không bị tác động bởi bất kỳ áp lực từ bên ngoài nào. Vẫn còn câu hỏi đặt ra, liệu sự ra đi của Đức Tổng có gây chia rẽ trong hàng giáo sĩ, giáo dân và ngay cả hàng giáo phẩm của Giáo Hội tại Việt Nam. Tôi cho rằng cần phải phân biệt, làm rõ, và trước hết phải đồng ý với nhau về nghĩa của từ “chia rẽ”. Nếu hiểu chia rẽ là chia thành vị trí đối lập, phe nọ phe kia trong nội bộ Giáo Hội, thì đó không phải là trường hợp xảy ra với chúng tôi.
Bên ngoài Giáo Hội, có những người không thích Giáo Hội, họ muốn gây chia rẽ và phá vỡ sự hợp nhất của Giáo Hội. Nhưng điều này không riêng gì ở Việt Nam. Trong suốt lịch sử, có những kẻ thù của Giáo Hội chỉ muốn nhìn thấy Giáo Hội bị chia rẽ. Điều này chẳng có gì là lạ, và đó là một hiện tượng luôn tái diễn trong lịch sử Giáo Hội. Trong thực tế, những gì đang xảy ra tại Việt Nam hiện nay, khách quan mà nói, tương ứng với một sự thay đổi về thái độ trong cách thức bày tỏ, một sự thay đổi đặc trưng của thời đại chúng ta. Người ta khẳng định sự khác biệt, đề cao việc mạnh dạn bày tỏ ý kiến cá nhân. Do đó cần phân biệt giữa chia cắt hay chia rẽ với việc đề cao quan điểm riêng. Trong Giáo Hội tại Việt Nam, rõ ràng là có một tinh thần tôn trọng sự khác biệt, và không ai nói về sự chia rẽ hay chia cắt.
Eglises d’Asie: Để kết luận, với tư cách là Phó Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, Đức cha có thể điểm qua về quan hệ giữa chính quyền và hàng giáo phẩm, giáo sĩ và giáo dân của Giáo hội Công giáo và tương lai của những mối quan hệ này?
– Về câu hỏi liên quan đến các mối quan hệ giữa các thành phần khác nhau của Giáo hội Việt Nam và chính quyền cộng sản, tôi sẽ trả lời theo kiểu lịch sử. Ở giai đoạn đầu tiên, đã tích tụ nhiều hiểu lầm giữa Công giáo và Cộng sản vì những lý do ý thức hệ và tiếp theo là hoàn cảnh lịch sử. Sau một thời gian sống cạnh nhau, người Công giáo và Cộng sản đã có những hiểu biết nhất định về nhau, mặc dù sự hiểu biết này vẫn chưa thật trọn vẹn, đặc biệt là ở các vùng nông thôn. Bây giờ nhiều cán bộ có dịp đi du lịch nước ngoài, một số đã đến thăm Vatican, một số khác đã đến Thánh Địa. Do đó, họ được nhiều dịp tiếp xúc với cộng đồng quốc tế, trong đó có các quốc gia Thiên chúa giáo. Họ có nhận xét khách quan hơn về Kitô giáo nói chung và người Công giáo nói riêng.
Đối với người Công giáo, họ cũng cùng chia sẻ mảnh đất và cùng sống dưới bầu trời giống như những người cộng sản đồng bào của mình. Vì tinh thần Tin Mừng và cũng vì tinh thần Việt Nam, nên họ luôn tìm cách làm giảm bớt căng thẳng, chung sống thoải mái với nhau, trên cơ sở nhận ra thiện chí của nhau. Người dân tin rằng cứ mãi xung đột với nhau thì chỉ làm cho cuộc sống khó khăn hơn mà thôi. Vì vậy ngày càng thêm hiểu biết lẫn nhau, khắc phục những trở ngại gây khó khăn cho mối quan hệ giữa hai bên. Đến nay chưa phải là đã hoàn toàn hiểu nhau. Tuy nhiên cũng đã mở ra một triển vọng mới. Giữa người Việt Nam với nhau, vẫn còn nhiều xung khắc và khác biệt do ý thức hệ và quan điểm chính trị. Nhưng cũng đã có thể hiểu nhau, hướng đến việc cùng nhau xây dựng một tương lai chung. Tôi căn cứ vào thiện chí của mỗi bên, bên nào cũng muốn sống hoà hợp, thống nhất, đoàn kết, bằng cách loại bỏ căn nguyên tạo ra chia rẽ và hạn chế những lý do gây bất đồng chia cắt chúng tôi. Tôi không rõ ý kiến của tôi, ở một mức độ nào đó, có ảo tưởng không, nhưng đó là ý kiến của cá nhân tôi, và cuối cùng, tôi lạc quan về mối quan hệ tôi vừa đề cập. Ngoài ra, chung sống hoà bình là một phần của các giá trị Tin Mừng. Để kết luận, tôi chỉ có thể kêu gọi tất cả mọi người thiện chí hãy xây dựng cách thức cùng nhau chung sống hoà bình, theo tinh thần của Phúc Âm.
Đức Thành dịch