Vào lúc 9 giờ tối Thứ Bảy Tuần Thánh 11/4/2020, Đức Thánh Cha đã chủ sự Lễ Vọng Phục Sinh trong Đền thờ Thánh Phêrô. Trong bài giảng, Đức Thánh Cha khuyến khích các tín hữu: “Đêm nay, chúng ta chinh phục một quyền cơ bản, quyền sẽ không bị tước khỏi chúng ta: quyền hy vọng.”
Cũng như các cử hành phụng vụ trong những ngày vừa qua, do đại dịch, Thánh lễ không có giáo dân tham dự và không có ban bí tích Rửa tội.
Thinh lặng vĩ đại của Thứ Bảy Thánh
Trong bài giảng thánh lễ, trước hết Đức Thánh Cha nhắc mọi người nhớ rằng, hôm nay, ngày Thứ Bảy, ngày của Tam Nhật Thánh, nhưng thường chúng ta lơ là với ngày này, do tâm trạng sốt ruột chờ đợi từ ngày Thứ Sáu Thánh đến Alleluia của Chúa Nhật. Nhưng, liên hệ đến thời điểm hiện nay, Đức Thánh Cha nhấn mạnh: “Tuy nhiên, năm nay, hơn bao giờ hết chúng ta cảm nhận Thứ Bảy Thánh là một ngày thinh lặng vĩ đại. Chúng ta có thể nhìn vào chính mình cùng với những cảm xúc của các phụ nữ. Như chúng ta, họ đã chứng kiến thảm kịch của đau khổ, một bi kịch xảy ra bất ngờ. Họ đã thấy cái chết và sự chết cũng đã hiện diện trong tâm hồn họ. Nỗi đau cùng với nỗi sợ hãi, các phụ nữ tự hỏi ‘người ta sẽ hành xử với chúng ta như đã đối xử với Thầy?’ Và rồi những nỗi sợ hãi cho tương lại, tất cả cần phải xây dựng lại. Ký ức bị tổn thương, niềm hy vọng bị bóp nghẹt. Đối với họ đó là giờ đen tối nhất.”
Không chạy trốn thực tế
Tiếp đến, Đức Thánh Cha ca ngợi thái độ của các phụ nữ khi đứng trước đau khổ, thất vọng và sợ hãi: “Nhưng trong hoàn cảnh này, các phụ nữ không để mình bị tê liệt. Họ không nhượng bộ trước sức mạnh đen tối của những lời than thở và thương tiếc, không khép mình trong bi quan, không chạy trốn thực tế. Vào ngày thứ Bảy, các phụ nữ đã làm một việc đơn giản nhưng phi thường: trong nhà, họ chuẩn bị thuốc thơm để xức xác Chúa. Họ không từ bỏ tình yêu: trong bóng tối tâm hồn, họ thắp sáng lòng thương xót. Trong lúc chuẩn bị những điều này, các phụ nữ không biết họ đang chuẩn bị cho ‘bình minh của ngày thứ Nhất trong tuần’, ngày sẽ thay đổi lịch sử. Chúa Giêsu như hạt giống đang ở trong lòng đất, chuẩn bị nảy sinh một sự sống mới, và các phụ nữ, với lời cầu nguyện và tình yêu giúp hy vọng nở hoa.”
Quyền hy vọng
Từ những cử chỉ hy vọng của các phụ nữ, Đức Thánh Cha khuyến khích các tín hữu: “Đêm nay, chúng ta chinh phục một quyền cơ bản, quyền sẽ không bị tước khỏi chúng ta: quyền hy vọng. Đây không chỉ là một sự lạc quan, một sự khích lệ. Đây là một hồng ân từ Trời cao, chúng ta không thể tự mình tạo ra. Mọi thứ sẽ ổn. Chúng ta nói điều này một cách kiên trì trong những tuần này, chúng ta bám vào vẻ đẹp của nhân loại chúng ta và làm cho con tim trỗi dậy những lời khích lệ. Nhưng thời gian trôi qua và nỗi sợ hãi tăng lên, ngay cả niềm hy vọng táo bạo cũng có thể tan biến. Niềm hy vọng của Chúa Giêsu thì khác xa. Chúa đặt vào tâm hồn sự tin chắc rằng Chúa biết cách biến mọi sự trở nên tốt đẹp, bởi vì ngay cả từ ngôi mộ, Chúa cũng đã làm phát sinh sự sống.”
Tiếp tục bài giảng Đức Thánh Cha nói về lòng can đảm của các phụ nữ và giải thích rằng can đảm là một thứ người ta không thể cho đi: “Anh chị em không thể cho người khác sự can đảm nhưng anh chị em có thể lãnh nhận nó như một ân ban. Chỉ cần chúng ta mở rộng con tim trong cầu nguyện, chỉ cần cố gắng nhấc ra một chút hòn đá đặt ở lối vào của con tim để có chỗ cho ánh sáng Chúa đi vào là chúng ta sẽ lãnh nhận được hồng ân can đảm.”
Loan báo Phục Sinh, loan báo niềm hy vọng
Sau khi đã lãnh nhận hồng ân can đảm, Chúa Giêsu trao sứ vụ cho các phụ nữ. Về điểm này, Đức Thánh Cha nói: “Đây là việc loan báo Phục Sinh, loan báo niềm hy vọng. Chúa nói: ‘Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê. Họ sẽ được thấy Thầy ở đó’ (Mt 28,10), thiên thần nói ‘Người đi Galilê trước các ông’ (c. 7). Thật vui khi chúng ta biết Chúa đi trước chúng ta. Đối với các môn đệ, Galilê cũng là nơi của những ký ức, đặc biệt là nơi của lời kêu gọi đầu tiên. Trở về Galilê nhắc nhở chúng ta, chúng ta được Thiên Chúa yêu thương và kêu gọi. Chúng ta cần tiếp tục cuộc hành trình, nhớ rằng chúng ta được sinh ra và được tái sinh từ một tiếng gọi yêu thương nhưng không. Đây là một điểm để chúng ta luôn bắt đầu lại, đặc biệt trong cuộc khủng hoảng, trong thời gian thử thách.”
Đức Thánh Cha mở rộng ý nghĩa vùng đất Galilê để nói về sứ vụ của người môn đệ: “Nhưng Galilê có nhiều điều để nói. Đó là một nơi không chỉ xa Giêrusalem về mặt địa lý, mà còn về chiều kích thánh thiêng. Galilê là một vùng đất, nơi có nhiều tôn giáo hiện diện. Chúa Giêsu sai các môn đệ đến đó, yêu cầu các ông bắt đầu từ đó. Điều này có nghĩa là gì? Trong việc loan báo niềm hy vọng, không được giới hạn trong hàng rào thánh thiêng của chúng ta, nhưng loan báo cho tất cả. Bởi vì tất cả đều cần được khích lệ, và nếu chúng ta không làm điều này, không chạm đến ‘Lời sự sống’ (1 Ga 1,1), thì ai sẽ làm?”
Loan báo sự sống trong thời điểm cái chết
Đức Thánh Cha khích lệ các tín hữu hãy trở thành các Kitô hữu, những người mang lấy gánh nặng của người khác, những người đem niềm ủi an. “An chị em hãy trở thành những người loan báo sự sống trong thời điểm cái chết! Tại mỗi Galilê, mỗi nơi của nhân loại, nơi chúng ta thuộc về, chúng ta hãy mang đến bài ca sự sống! Chúng ta hãy làm cho tiếng kêu của sự chết phải im lặng, đã quá đủ chiến tranh rồi. Hãy ngừng sản xuất và buôn bán vũ khí, bởi vì chúng ta cần bánh chứ không cần súng đạn. Hãy ngừng phá thai, giết hại thai nhi vô tội. Hãy mở rộng con tim để lấp đầy những bàn tay trống rỗng thiếu những điều cần thiết.”
Đức Thánh Cha kết thúc bài giảng với việc mô tả hành động của các phụ nữ: “Các bà tiến lại gần Người, ôm lấy chân.” (Mt 28,9). Đức Thánh Cha giải thích: “Để đến gặp chúng ta, đôi chân Chúa phải đi một hành trình dài, đi đến tận cùng của ngôi mộ và bước ra từ đó. Các phụ nữ ôm lấy đôi chân đã giẫm lên cái chết và mở ra con đường hy vọng. Chúng ta, những người lữ hành đang tìm kiếm niềm hy vọng, hôm nay chúng ta níu kéo, ôm lấy Chúa, Đấng Phục Sinh. Chúng ta quay lưng lại với cái chết và chúng ta mở lòng ra với Chúa, Đấng là Sự Sống.”
***
Toàn văn bài giảng lễ Vọng Phục Sinh của ĐTC Phanxicô
Chuyển dịch: Khắc Bá, SJ
Sau ngày Sabbath (Mt 28,1), những người phụ nữ đã đi đến ngôi mộ. Đây là cách Tin Mừng của Đêm Vọng thánh thiêng này bắt đầu: với ngày Sabát. Trong Tam Nhật Thánh, chúng ta thường có xu hướng bỏ qua ngày này bởi ta đang háo hức chờ đợi bước chuyển từ mầu nhiệm Thánh Giá của ngày Thứ Sáu sang lời hoan ca Alleluia của Chúa Nhật Phục Sinh. Tuy nhiên, năm nay, chúng ta đang trải nghiệm, hơn bao giờ hết, sự im lặng lớn lao của Thứ Bảy Thánh. Chúng ta có thể tưởng tượng mình ở vị trí của những phụ nữ vào ngày đó. Giống như chúng ta bây giờ, trước mắt họ là một thảm cảnh đau thương, một bi kịch xảy ra quá bất ngờ. Họ đã nhìn thấy sự chết và nó đè nặng lên trái tim họ. Nỗi đau xen lẫn nỗi sợ hãi: liệu họ có chịu chung số phận với Thầy mình? Rồi sau đó là nỗi sợ về viễn tượng tương lai và tất cả những gì cần phải được xây dựng lại. Một ký ức đau đớn, một niềm hy vọng bị cắt cụt. Giống như chúng ta bây giờ, đối với họ, đó là giờ phút đen tối nhất.
Tuy nhiên, trong tình huống này, những người phụ nữ không cho phép mình bị tê liệt. Họ không chịu khuất phục trước sự ảm đạm của đau khổ và tiếc nuối; họ không tự thu mình lại, hay trốn chạy khỏi thực tại. Họ đang làm một việc rất đơn sơ nhưng lại phi thường: chuẩn bị các hương liệu ở nhà để xức xác Chúa Giêsu. Họ không ngừng yêu thương; từ trong đêm tối của cõi lòng, họ thắp lên một ngọn lửa thương xót. Mẹ Maria của chúng ta đã trải qua ngày Thứ Bảy đó. Đó là ngày xứng đáng dành để tôn vinh mẹ, trong tâm tình nguyện cầu và hy vọng. Mẹ đã đáp lại nỗi buồn bằng niềm tin vào Thiên Chúa. Những người phụ nữ này không thể ngờ được rằng, từ trong bóng tối của ngày Sa-bát đó, chính họ đang thực hiện những sự chuẩn bị cho “bình minh của ngày thứ nhất trong tuần”, ngày sẽ thay đổi lịch sử. Như hạt giống bị chôn vùi trong lòng đất, Đức Giêsu chuẩn bị làm cho đời sống mới được nở hoa trong thế giới này; và những người phụ nữ đó, bằng lời cầu nguyện và tình yêu, đã giúp tạo nên đoá hoa hy vọng đó. Trong những ngày buồn thảm này, có biết bao người cũng đã và đang làm những điều mà những phụ nữ kia đã thực hiện, đó là gieo hạt mầm hy vọng, với những cử chỉ bé nhỏ của lòng quan tâm, của tình thường và lời cầu nguyện.
Rạng sáng, những người phụ nữ đi đến ngôi mộ. Thiên thần nói với họ: “Đừng sợ! Ngài không ở đây; vì Ngài đã sống lại.” (câu 5-6). Họ nghe thấy những lời của sự sống ngay cả khi họ đang đứng trước một ngôi mộ… Và sau đó họ gặp Đức Giê-su, đấng ban tặng tất mọi niềm hy vọng, Đấng xác chuẩn thông điệp và nói: “Đừng sợ!” (câu 10). Đừng sợ, đừng lui bước trước sợ hãi: Đây là thông điệp của hy vọng. Nó được gửi đến chúng ta hôm nay. Đây là những lời mà Thiên Chúa lặp lại với chúng ta ngay trong đêm nay.
Đêm nay, chúng ta được trao một quyền cơ bản mà không bao giờ bị lấy mất: quyền hy vọng. Đó là niềm hy vọng hy sống động và mới mẻ đến từ Thiên Chúa. Đó không phải là thứ lạc quan tếu; nó không phải là một cái vỗ nhẹ vào lưng hay một lời khích lệ trống rỗng. Đó là một món quà từ thiên đường, thứ mà chúng ta không thể tự mình kiếm được. Trong những tuần này, chúng ta đã lặp đi lặp lại rằng ‘tất cả sẽ ổn thôi’. Đó là những lời nói bén rễ từ nét đẹp nhân bản và thúc đẩy những câu khích lệ nổi lên từ cõi lòng chúng ta. Nhưng khi ngày tháng trôi qua và nỗi sợ hãi tăng lên, ngay cả niềm hy vọng táo bạo nhất cũng có thể tan biến. Niềm hy vọng của Đức Giêsu mang lại thì rất khác. Ngài gieo vào lòng chúng ta niềm tin rằng Thiên Chúa có thể biến mọi thứ trở nên tốt lành, vì chưng ngay cả từ ngôi mộ Ngài cũng đã mang lại sự sống.
Ngôi mộ là nơi không ai bước vào. Nhưng Chúa Giêsu trỗi dậy vì chúng ta; Ngài đã sống lại cho chúng ta, để mang lại sự sống từ nơi của sự chết, để khởi đầu một lịch sử mới ở chính nơi bị chèn bởi tảng đá. Đấng đã lăn hòn đá bịt kín lối vào ngôi mộ cũng có thể loại bỏ những viên đá trong trái tim chúng ta. Vì vậy, chúng ta đừng nhụt chí; chúng ta đừng đặt tảng đá chắn mất niềm hy vọng. Chúng ta có thể và phải hy vọng vì Thiên Chúa là Đấng thành tín. Ngài không bỏ rơi chúng ta; Ngài đã viếng thăm ta và đã bước vào những cảnh huống đau thương, thống khổ và chết chóc của chúng ta. Ánh sáng của Ngài xua tan bóng tối của ngôi mộ; hôm nay Ngài muốn ánh sáng đó xuyên qua cả những góc tối nhất trong cuộc sống chúng ta. Thưa quý anh chị em, ngay cả khi chúng ta đã chôn vùi niềm hy vọng trong trái tim mình, chúng ta cũng đừng từ bỏ, vì Thiên Chúa vẫn luôn lớn hơn. Bóng tối và sự chết không có lời cuối cùng. Hãy mạnh mẽ lên, vì với Chúa không có gì là hư mất!
Lòng can đảm. Đây là một cụm từ thường được Chúa Giêsu nói trong Tin Mừng. Chỉ một lần những người khác dùng cụm từ này để khích một người đang cần giúp đỡ: “Hãy can đảm đứng dậy, Ngài đang gọi anh đó!” (Mc 10,49). Chính Người, Đấng Phục Sinh, đã nâng chúng ta lên trong những lúc cần thiết. Trên hành trình cuộc sống, nếu ta cảm thấy yếu đuối, mỏng giòn, hoặc sa ngã, xin đừng sợ, Thiên Chúa sẽ đưa tay giúp đỡ và nói với ta: “Dũng cảm lên!” Tựa như Don Abbondio (trong tiểu thuyết của Manzoni), chúng ta cũng có thể nói “can đảm chẳng phải là điều gì bạn có thể tự trao cho mình” (I Promessi Sposi, XXV). Đúng, ta không thể tặng nó cho chính mình, nhưng ta có thể nhận nó như một món quà. Tất cả những gì ta phải làm là mở lòng cầu nguyện và nhẹ nhàng lăn đi tảng đá chặn lối vào trái tim của ta để ánh sáng của Chúa Giê-su có thể rọi vào. Ta chỉ cần kêu cầu Ngài: “Lạy Chúa Giêsu, hãy đến với con giữa nỗi sợ hãi này, và nói với con rằng: Hãy can đảm!” Có Ngài, ôi lạy Chúa, chúng con sẽ chịu thử thách nhưng không bị lung lay. Và, dù cho bất cứ nỗi buồn nào, chúng con sẽ được củng cố trong hy vọng, vì có Ngài, thập giá cũng dẫn đến sự phục sinh, bởi Ngài ở cùng chúng con trong màn đêm u tối; Ngài chính là sự vững vàng giữa những điều không chắc chắn của chúng con; Ngài là lời nói phát ra trong cơn thinh lặng của chúng con; và không gì có thể lấy đi tình yêu Ngài dành cho chúng con.
Đây là sứ điệp Phục Sinh, sứ điệp của hy vọng. Sứ điệp này chứa một phần nữa, đó là sứ mạng được sai đi. Đức Giêsu bảo các phụ nữ: “Về báo cho anh em của Thầy để họ đến Galilê.” (Mt 28,10). Thiên thần đã báo trước: “Người đi Galilê trước các ông.” (Câu 7). Chúa đi trước chúng ta. Thật đáng khích lệ khi biết rằng Ngài đi trước chúng ta trong cuộc sống và trong cái chết; Ngài đến Galilê trước chúng ta. Với Đức Giêsu và các môn đệ, nơi này gợi nhớ tới cuộc sống hàng ngày, tới gia đình và công việc. Chúa Giêsu muốn chúng ta mang lại hy vọng ở đó, cho cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Đối với các môn đệ, Galilê cũng là nơi đáng nhớ, vì đó là nơi đầu tiên họ được kêu gọi. Trở về Galilê có nghĩa là nhớ rằng chúng ta đã được Thiên Chúa yêu thương và kêu gọi. Chúng ta cần tiếp tục cuộc hành trình, nhắc nhở bản thân rằng chúng ta được sinh ra và tái sinh nhờ một lời mời gọi được trao tặng nhưng không cho chúng ta vì tình yêu. Đây luôn là điểm mà chúng ta luôn có thể làm mới lại, đặc biệt là trong thời kỳ khủng hoảng và thử thách.
Nhưng còn hơn thế nữa. Galilê là khu vực xa nhất tính từ chỗ họ đang ở, tức từ Jerusalem. Và không chỉ về mặt địa lý. Galilê cũng là nơi cách xa sự thánh thiêng của Thành Thánh nhất. Đó là khu vực của những người thuộc các tôn giáo khác nhau sinh sống: đó là “Galilê của Dân Ngoại” (Mt 4,15). Chúa Giêsu sai họ đến đó và yêu cầu họ bắt đầu lại từ đó. Điều này nói gì với chúng ta? Nó nói rằng thông điệp hy vọng không nên bị giới hạn vào những chốn thánh thiêng của riêng chúng ta, mà cần được mang đến cho mọi người. Bởi vì tất cả mọi người đang cần sự trấn an, và nếu chúng ta, những người đã chạm được vào “Lời của Sự Sống” (1 Ga 1,1), không trao ban sự trấn an đó thì ai sẽ làm thay? Đẹp biết bao khi trở thành những Kitô hữu mang đến sự an ủi, trở thành người mang vác gánh nặng của người khác, và thành người khích lệ: đó là những sứ giả của sự sống trong thời điểm chết chóc! Ước gì chúng ta có thể mang lời ca sự sống đến mọi thứ ‘Galilê’, mọi khu vực của gia đình nhân loại mà tất cả chúng ta thuộc về và là một phần của chúng ta, vì tất cả chúng ta đều là anh chị em. Chúng ta hãy làm cho những kêu gào của sự chết phải im lặng; cho mọi thứ chiến tranh phải dừng lại! Ước gì chúng ta có thể ngừng sản xuất và buôn bán vũ khí, vì chúng ta cần lương thực chứ không phải súng ống! Hãy kết thúc việc phá thai và giết hại người vô tội. Ước gì trái tim của những người dư dả có đủ sự cởi mở để trao ban các nhu cầu thiết yếu vào những đôi tay trống trơn của người nghèo.
Sau hết, những phụ nữ đó đã níu giữ chân Chúa Giêsu (Mt 28,9). Đó là đôi chân đã đi rất xa để gặp gỡ chúng ta: đến tận mức đi vào và trỗi dậy từ ngôi mộ. Những phụ nữ ôm lấy đôi chân đã giẫm đạp cái chết và đã mở ra con đường hy vọng. Hôm nay, như những người lữ hành tìm kiếm hy vọng, chúng con muốn bám vào Ngài, lạy Đức Giêsu Phục Sinh! Chúng con quay lưng với cái chết và mở rộng trái tim cho Ngài, vì chính Ngài là Sự Sống.