“Giuđa, kẻ nộp Người, cũng đứng chung với họ” (Ga 18,5)
Lịch sử Thiên Chúa – loài người trong cuộc thương khó của Chúa Giêsu bao
gồm nhiều câu chuyện nhỏ về những người nam nữ tham gia vào những mảng
sáng, tối của biến cố này. Câu chuyện bi thảm nhất là câu chuyện của
Giuđa Iscariot. Đây là một trong số ít các sự kiện được đề cập với cùng
một mức nhấn mạnh như nhau bởi cả bốn sách Phúc Âm và phần còn lại của
Tân Ước. Cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi đã suy tư rất nhiều về sự kiện này
và chúng ta thật là bất cẩn nếu không làm như thế. Câu chuyện này có
nhiều điều để nói với chúng ta.
Giuđa đã được lựa chọn ngay từ đầu trong Nhóm Mười Hai. Khi đưa tên ông
ta vào trong danh sách các tông đồ, Thánh sử Luca viết “Giuđa Iscariot,
người trở thành (egeneto) một kẻ phản bội.” (Lc 6,16). Như thế, Giuđa đã
không phải là một kẻ phản bội từ lúc lọt lòng mẹ, và cũng chẳng phải là
một kẻ phản bội lúc Chúa Giêsu chọn ông; sau này ông mới trở thành một
kẻ phản bội! Chúng ta đang đứng trước một trong những thảm kịch bi đát
nhất của tự do con người.
Tại sao anh ta trở thành một kẻ phản bội? Cách đây không lâu, khi luận
đề về “Chúa Giêsu cách mạng” đang cuốn hút nhiều người, người ta cố gắng
để gán cho hành động phản bội của Giuđa những động cơ mang tính lý
tưởng. Có người nhìn thấy trong tên của ông ta “Iscariot” một chút biến
tướng của từ sicariot, nghĩa là anh ta thuộc về một nhóm cuồng tín cực
đoan chuyên sử dụng một loại dao găm (sica) để chống lại người La Mã.
Lại có những người khác nghĩ rằng Giuđa đã thất vọng với Chúa Giêsu về
cách Ngài trình bày “Vương quốc Thiên Chúa” và muốn buộc Ngài ra tay
hành động chống lại các dân ngoại cả trên bình diện chính trị. Đây là
Giuđa của vở nhạc kịch nổi tiếng Jesus Christ Superstar và của những bộ
phim và tiểu thuyết khác được chào đời gần đây - một Giuđa giống như một
kẻ nổi tiếng đã phản bội ân nhân mình, là Brutus, người đã giết Julius
Caesar để cứu nền Cộng hoà La Mã!
Đây là những tái tạo lại câu chuyện phải được tôn trọng nếu như chúng có
giá trị văn học nghệ thuật. Tuy nhiên, chúng không có bất kỳ cơ sở lịch
sử nào. Những sách Phúc Âm là các nguồn đáng tin cậy duy nhất mà chúng
ta có về nhân vật Giuđa đều đồng thanh nói về một động cơ rất trần tục:
đó là tiền. Giuđa đã được giao phó giữ tiền của nhóm; khi bà Maria
Mađalêna xức dầu thơm cho Chúa tại Betania, Giuđa đã phản đối việc dùng
dầu thơm quý giá để đổ lên chân Chúa không phải vì ông quan tâm đến
người nghèo nhưng, như Thánh Gioan lưu ý, “vì y là một tên ăn cắp: y giữ
túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung” (Ga
12,6 ). Đề nghị của ông với các thượng tế thật là rõ ràng: ‘Các ông
định cho tôi bao nhiêu, nếu tôi giao nạp Người cho các ông? Và các
thượng tế ấn định số tiền là 30 đồng bạc.’ (Mt 26,15).
Nhưng tại sao người ta lại ngạc nhiên trước lời giải thích này, câu trả
lời hiển nhiên quá mà? Chẳng phải chuyện như thế vẫn luôn xảy ra trong
lịch sử và vẫn xảy ra ngày hôm nay sao? Mammon, thần tài, không chỉ là
một ngẫu tượng trong số rất nhiều những ngẫu tượng: nhưng đó là thứ ngẫu
tượng trỗi vượt nhất, đó là thứ “thần được người ta đúc lên” (x. Xh
34,17). Và chúng ta biết lý do tại sao. Khách quan mà nói ai là kẻ thù
thực sự, là đối thủ của Thiên Chúa trong thế giới này? Không phải Satan
sao? Chẳng ai quyết định phụng sự Satan mà không có một động cơ. Bất cứ
ai quyết định làm như vậy đều tin rằng họ sẽ có được một số quyền thế
hoặc lợi ích trần tục nào đó từ hắn ta. Ngoài Thiên Chúa ra, một số
người lại có một ông chủ khác đối nghịch với Thiên Chúa, Chúa Giêsu nói
với chúng ta rõ ràng người chủ khác ấy là ai: “Không ai có thể làm tôi
hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ
này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm
tôi Tiền Của được.” (Mt 6,24). Tiền của là thứ “thần có thể nhìn thấy
được” trái ngược với Thiên Chúa là Đấng vô hình.
Thần tài chống lại Thiên Chúa vì nó tạo ra nơi con người một vũ trụ tinh
thần khác; nó thay đổi mục đích của nhân đức đối thần. Đức tin, hy vọng
và lòng bác ái không còn được đặt vào Thiên Chúa nhưng vào tiền. Một
đảo ngược nham hiểm của tất cả các giá trị xảy ra. Kinh Thánh nói rằng
“cái gì cũng có thể, đối với người có lòng tin” (Mc 9,23), nhưng thế
gian nói “có tiền mua tiên cũng được”. Và trên một bình diện nhất định,
mọi thứ dường như là như thế thật.
Kinh Thánh nói: “Lòng yêu mến tiền bạc là căn nguyên của mọi tội lỗi.”
(1 Tm 6,10). Đằng sau mọi sự dữ trong xã hội của chúng ta là tiền bạc,
hay ít nhất cũng có dính líu đến tiền. Chúng ta nhớ lại trong Kinh Thánh
câu chuyện các thanh niên nam nữ đã phải hy sinh cho thần Moloc (x. Gr
32,35) hay câu chuyện thần Aztec mà hằng ngày một số lượng nhất định
dân chúng bị giết để lấy tim dâng lên thần. Những gì nằm phía sau nạn
buôn bán ma túy phá huỷ rất nhiều cuộc sống của con người, đằng sau hiện
tượng mafia, đằng sau việc tham nhũng của các chính trị gia, đằng sau
việc sản xuất và bán các loại vũ khí, và thậm chí đằng sau một điều thật
khủng khiếp - khi phải đề cập đến - là việc bán nội tạng con người lấy
từ trẻ em? Và còn cuộc khủng hoảng tài chính mà thế giới đã và đang trải
qua cũng như đất nước này vẫn còn đang gánh chịu, không phải phần lớn
là do “sự ham hố tiền của đáng nguyền rủa” của một số người sao? Giuđa
đã bắt đầu nhón khỏi ví chung của cả nhóm. Còn một số các quản trị viên
công quỹ thì sao?
Tuy nhiên, bên cạnh những tội phạm hình sự để có tiền, còn có cả những
xì căng đan trong đó một số người kiếm được tiền lương và hưu trí đôi
khi cao hơn so với những người làm việc cho họ 100 lần và họ ồn ào phản
đối khi một đề nghị được đưa ra để giảm tiền lương của họ ngõ hầu xã hội
có thể công bằng hơn?
Trong những thập niên 1970 và 1980, tại Ý, để giải thích cho những thay
đổi chính trị bất ngờ, những hành xử quyền lực bí ẩn, khủng bố, và tất
cả các loại bí ẩn gây phiền hà cho cuộc sống dân sự, người ta bắt đầu đề
cập đến ý tưởng bán thần thoại về sự tồn tại của một “Bố Già”, một nhân
vật quỷ quyệt và quyền thế là kẻ đứng sau hậu trường giật dây cho tất
cả mọi chuyện để đạt đến những mục tiêu chỉ mình hắn ta biết mà thôi.
“Bố Già” quyền uy ngất ngưởng này thực sự tồn tại và chẳng phải là một
huyền thoại đâu. Tên hắn ta là tiền!
Giống như tất cả các ngẫu tượng khác, thần tài quỷ quyệt gian ngoa: nó
hứa hẹn an ninh nhưng thay vào đó nó lấy đi; nó hứa hẹn tự do nhưng thực
tế lại phá huỷ tự do. Thánh Phanxicô Assisi, với một mức độ nghiêm khắc
không thường thấy nơi ngài, đã mô tả giờ phút kết thúc cuộc đời của một
người đã sống chỉ để làm tăng “vốn liếng” của mình. Khi gần chết ông ta
mời linh mục đến. Vị linh mục hỏi người sắp chết: “Ông có muốn được tha
thứ tất cả tội lỗi của ông không?” Và ông trả lời: “Thưa có.” Linh mục
hỏi tiếp: “Ông có sẵn sàng để sửa chữa những sai lầm ông đã gây ra, khôi
phục lại những thứ ông đã lừa đảo của những người khác không?” Người
đàn ông sắp chết thều thào trả lời: “Không, không thể được.” “Tại sao
lại không thể được?” “Bởi vì tôi đã giao phó mọi sự trong tay của người
thân và bạn bè của tôi.” Như thế, ông ta chết đi mà không ăn năn hối
cải, và trong khi thi hài ông bắt đầu lạnh dần người thân và bạn bè của
ông tụ họp lại bên cạnh. Họ nói: “Thằng chết tiệt này! Lẽ ra nó nên kiếm
nhiều tiền hơn để lại cho chúng ta mới phải chứ.”
Bao nhiêu lần trong thời buổi này chúng ta lẽ ra phải suy nghĩ lại một
lần nữa tiếng Chúa Giêsu kêu lên với người phú hộ trong dụ ngôn về người
cứ lo thu tóm của cải bất tận và nghĩ rằng phần còn lại của cuộc đời
mình sẽ được an toàn: “Đồ ngu! Nội đêm nay, mạng ngươi bị đòi lại, thì
những gì ngươi sắm sẵn đó sẽ về tay ai?” (Lc 12,20).
Những người có quyền chức tham ô đến nỗi hết nhớ nổi ngân hàng nào,
thiên đường tài chính nào tàng trữ bao nhiêu tiền tham nhũng của mình đã
nhận ra bản thân mình đang bị xét xử tại tòa án hoặc tại một nhà tù
đúng ngay vào lúc họ tự nhủ với lòng mình: “Yên tâm mà hưởng đi, hồn tôi
ơi.” Họ làm điều đó cho ai? Nó có đáng không? Phải chăng họ làm như thế
vì lợi ích của con em và gia đình của họ, hoặc đảng phái của họ, nếu
thực sự họ nghĩ như thế? Hay là chỉ hủy hoại bản thân và những người
khác?
Sự phản bội của Giuđa vẫn tiếp tục xuyên suốt trong lịch sử, và người bị
phản bội luôn luôn là Chúa Giêsu. Giuđa bán Đầu [ý chỉ Chúa Giêsu – chú
thích của người dịch], trong khi những kẻ bắt chước ông bán phần thân
mình, vì người nghèo là chi thể của nhiệm thể Chúa Kitô, cho dù họ biết
điều đó hay không. “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế
cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm
cho chính Ta vậy.” (Mt 25,40). Tuy nhiên, sự phản bội của Giuđa không
chỉ tiếp tục trong phạm vi các nhân vật cao cấp các loại mà tôi vừa đề
cập. Thật là an ủi cho chúng ta nếu được như thế, nhưng không phải vậy
đâu. Bài giảng mà Cha Primo Mazzolari vào Thứ Năm Tuần Thánh năm 1958,
về “Anh Giuđa của chúng ta” vẫn còn rất nổi tiếng. Ngài nói với vài giáo
dân ngồi trước mặt ngài: “Hãy để tôi suy nghĩ về cái tên Giuđa trong
người tôi đây một lúc, về cái tên Giuđa, có lẽ cũng có cả bên trong anh
chị em.”
Người ta có thể phản bội Chúa Giêsu để đổi lấy những thứ khác hơn là 30
đồng bạc. Một người đàn ông phản bội vợ mình, hoặc người vợ phản bội
chồng, là phản bội Chúa Kitô. Các thừa tác viên của Chúa không trung
thành với đấng bậc của mình trong cuộc sống, hoặc thay vì nuôi dưỡng
những con chiên được giao phó cho ngài lại dùng những con chiên ấy như
nguồn vỗ béo cho chính mình, là phản bội Chúa Giêsu. Bất cứ ai phản bội
lương tâm của họ đều phản bội Chúa Giêsu. Thậm chí tôi có thể phản bội
Ngài ngay lúc này đây- và điều này làm cho tôi run sợ - nếu như trong
khi giảng về Giuđa tôi quan tâm đến sự đồng thuận của khán giả hơn là dự
phần trong nỗi buồn bao la của Đấng Cứu Thế. Có một trường hợp giảm
khinh trong trường hợp của Giuđa mà tôi không có. Ông ta không biết Chúa
Giêsu là ai và chỉ coi Ngài là “một người công chính”; ông không biết
rõ như chúng ta rằng Ngài là Con Thiên Chúa!
Mỗi năm khi Mùa Phục Sinh đến gần, tôi đều muốn nghe lại bản “Cuộc
Thương khó Chúa Kitô theo Thánh Matthêu” của Bach. Nó bao gồm một chi
tiết khiến tôi rùng mình mỗi lần. “Ðang bữa ăn, Người nói: Thầy bảo thật
anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy.” (Mt 26,21). Khi Chúa Giêsu
thông báo như thế, tất cả các tông đồ đều hỏi Chúa Giêsu: “Có phải con
không, thưa Thầy?” Trước khi chúng ta nghe câu trả lời của Chúa Kitô,
nhà soạn nhạc - xoá đi khoảng cách giữa biến cố và việc tưởng niệm biến
cố ấy - thêm vào một hợp xướng bắt đầu như thế này: “Đó là con; Con là
kẻ phản bội! Con cần phải đền bù tội lỗi con.” Giống như tất cả các hợp
xướng thánh ca trong tác phẩm âm nhạc này, nó thể hiện tình cảm của
những người đang lắng nghe. Nó cũng là một lời mời gọi chúng ta xưng thú
tội lỗi mình.
Tin Mừng mô tả cái kết cục khủng khiếp của Giuđa: “Bấy giờ, Giuđa, kẻ
nộp Người, thấy Người bị kết án thì hối hận. Hắn đem ba mươi đồng bạc
trả lại cho các thượng tế và kỳ mục mà nói: “Tôi đã phạm tội nộp người
vô tội, khiến Người phải chết oan.” Nhưng họ đáp: ‘Can gì đến chúng tôi.
Mặc kệ anh!’ Giuđa ném số bạc vào Ðền Thờ rồi lui ra và đi thắt cổ.”
(Mt 27,3-5). Nhưng chúng ta không nên đưa ra một phán quyết vội vàng ở
đây. Chúa Giêsu không bao giờ bỏ rơi Giuđa, và không ai biết, sau khi
ông treo mình lên cây với một sợi dây thừng quanh cổ, ông ta sẽ đi về
đâu: trong tay của Satan hay trong bàn tay của Thiên Chúa. Ai có thể
biết được điều gì đã loé lên trong tâm hồn ông trong những giây phút
cuối cùng này? “Bạn” là từ cuối cùng mà Chúa Giêsu gọi ông, và ông không
thể quên được, cũng giống như ông không thể quên ánh mắt của Chúa Giêsu
nhìn ông.
Đúng là khi nói chuyện với Chúa Cha về các môn đệ của Ngài, Chúa Giêsu
đã nói về Giuđa, “không một ai trong họ phải hư mất, trừ đứa con hư
hỏng” (Ga 17,12). Nhưng ở đây, như trong rất nhiều trường hợp khác, Ngài
đang nói từ quan điểm của thời gian và không phải vĩnh hằng. Tầm cỡ của
sự phản bội này tự mình đã đủ, không cần phải tính đến sự thất bại đó
là vĩnh cửu để giải thích một bản án đáng sợ khác nói về Giuđa: “Ðã hẳn,
Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người. Nhưng khốn cho kẻ nào
nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn!” (Mc 14,21). Số phận đời
đời của một con người là một bí mật bất khả xâm phạm được gìn giữ bởi
Thiên Chúa. Giáo Hội bảo đảm với chúng ta rằng một người nam hay một
người nữ được công bố là một vị thánh đang được nếm hưởng niềm hạnh phúc
vĩnh cửu, nhưng Giáo Hội không biết chắc chắn rằng một người cụ thể nào
đó đã phải sa hoả ngục hay không.
Dante Alighieri, là một nhà thơ, là người đã đặt Giuđa trong tầng cuối
cùng sâu nhất của địa ngục trong tác phẩm Divine Comedy của mình, đã kể
về việc hoán cải vào giờ phút cuối cùng của Manfred, con trai Hoàng đế
Frederick II và là vua xứ Sicily, người mà tất cả mọi người vào thời
điểm đó đều coi y là đáng nguyền rủa vì ông đã chết trong vạ tuyệt
thông. Bị thương chí mạng trong một trận chiến, Manfred tâm sự với nhà
thơ rằng vào thời điểm cuối cùng của cuộc đời mình, “... trong than
khóc, tôi đã phó linh hồn tôi cho Đấng đã sẵn sàng tha thứ” và ông đã
gửi một tin nhắn từ Luyện ngục về trái đất mà ngày nay vẫn còn có liên
quan tới chúng ta:
Khủng khiếp là bản chất của tội lỗi tôi, nhưng lòng thương xót vô biên
mở rộng vòng tay của mình cho bất kỳ người nào tìm kiếm nó.
Đây là điều mà câu chuyện về người anh em Giuđa của chúng ta nên khiến
chúng ta phải làm: ấy là sấp mình trước Đấng sẵn lòng tha thứ cho chúng
ta cách nhưng không, là ném mình tương tự như vậy vào cánh tay đang dang
ra của Đấng chịu đóng đinh. Điều quan trọng nhất trong câu chuyện của
Giuđa không phải là sự phản bội của ông ta nhưng là phản ứng của Chúa
Giêsu đối với ông. Ngài biết rõ những gì đã phát triển trong trái tim
người môn đệ mình, nhưng Ngài không phơi bày ra; Ngài muốn cho Giuđa cơ
hội cho tới tận phút cuối cùng để quay trở lại, và gần như che chắn cho
anh ta. Ngài biết lý do tại sao Giuđa đến vườn ô liu, nhưng Ngài không
từ chối nụ hôn lạnh lùng của y và thậm chí còn gọi y là “bạn” (x. Mt
26,50). Ngài đã tìm ra Phêrô sau khi chối Chúa để tha thứ cho ông, vì
vậy Ngài có thể đã tìm ra Giuđa tại chỗ nào đó trên đường lên núi Sọ!
Khi Chúa Giêsu cầu nguyện “Lạy Cha, xin tha cho chúng; vì chúng không
biết việc chúng làm” (Lc 23,34) từ trên thập giá, Chúa chắc chắn không
loại trừ Giuđa trong số những người mà Ngài cầu nguyện cho.
Vì vậy, những gì chúng ta sẽ làm là gì? Ai là người mà chúng ta nên noi
theo, Giuđa hay Phêrô? Phêrô đã hối hận vì những gì ông đã làm, nhưng
chẳng phải Giuđa cũng đã hối hận đến mức bật khóc sao? “Tôi đã phản bội
máu người vô tội!” Và ông đã trả lại ba mươi đồng bạc. Vậy đâu là sự
khác biệt? Chỉ là một điều này thôi: đó là Phêrô thì tin tưởng vào lòng
thương xót của Chúa Kitô, còn Giuđa thì không! Tội lỗi lớn nhất của
Giuđa không phải là phản bội Chúa Kitô nhưng là đã nghi ngờ lòng thương
xót vô biên của Ngài.
Nếu chúng ta đã bắt chước Giuđa ít nhiều trong sự phản bội của ông,
chúng ta đừng bắt chước ông trong sự thiếu niềm tin vào sự tha thứ. Có
một bí tích mà qua đó chúng ta có thể kinh nghiệm chắc chắn về lòng
thương xót của Chúa Kitô: đó là Bí tích Hoà Giải. Bí tích này tuyệt vời
là ngần nào! Thật là ngọt ngào để cảm nghiệm về Chúa Giêsu là Thầy, là
Chúa, nhưng thậm chí còn ngọt ngào hơn để cảm nghiệm Ngài là Đấng Cứu
Thế, là Đấng lôi anh chị em ra khỏi vực thẳm, như Ngài đã kéo Phêrô khỏi
chìm xuống biển, để cảm nghiệm Ngài là Đấng đã chạm vào anh chị em như
Ngài đã làm với người bị bệnh phong, và nói với anh chị em: “Tôi muốn,
anh sạch đi.” (Mt 8,3).
Bí tích Hoà Giải cho chúng ta cảm nghiệm chính bản thân mình những gì
Giáo Hội nói về tội lỗi của Ađam vào đêm Phục Sinh trong bài “Vinh Tụng
Ca”: “Ôi tội hồng phúc vì đã đem đến một Đấng Cứu Chuộc vĩ đại và vinh
quang” Chúa Giêsu biết làm thế nào để lấy đi tất cả tội lỗi của chúng
ta, khi chúng ta có lòng ăn năn, và làm cho những tội lỗi này thành “tội
hồng phúc”, những tội lỗi đó sẽ không còn được nhớ đến, chúng chỉ là
dịp để chúng ta cảm nghiệm lòng thương xót và sự dịu dàng của Thiên
Chúa.
Tôi có một mong muốn cho bản thân mình và cho tất cả những người cha,
người anh, người chị, người em đáng kính: đó là cầu xin cho vào sáng
Phục Sinh, chúng ta có thể thức giấc và để cho những lời của một người
cải đạo vĩ đại trong thời hiện đại là Paul Claudel, vang vọng trong trái
tim của chúng ta.
Thiên Chúa của con, con đã được hồi sinh, và con sống với Chúa một lần nữa!
Con đang mê ngủ, duỗi thẳng tứ chi như một người đã chết trong đêm. Chúa nói: “Hãy có ánh sáng!” Và con tỉnh dậy oà khóc!
Cha của con, Chúa là Đấng đã ban cho con cuộc sống trước lúc rạng đông, con đặt bản thân con trong sự hiện diện của Chúa.
Con tim con tự do và miệng của con sạch sẽ; cơ thể và tinh thần của con
đang chay tịnh. Con đã được xá khỏi tất cả các tội lỗi của con, những
tội con đã thú nhận từng tội một.
Chiếc nhẫn cưới trên ngón tay con và khuôn mặt của con được rửa sạch.
Con giống như một con người vô tội trong ân sủng mà Ngài ban cho con.
Đây là những gì lễ Vượt Qua của Chúa Kitô có thể làm cho chúng ta.