ĐGH Bênêđictô XVI
Đức Bênêđictô XVI là ai? Đây là câu hỏi đã xuất hiện trong đầu của nhiều người trong những ngày gần đây; những ngày đau khổ tột cùng cho ngài và cho Giáo Hội.
Vào đầu triều đại giáo hoàng của mình vào năm 2005, ngài muốn nói rằng ngài thấy mình như một người đầy tớ khiêm nhường trong vườn nho của Chúa, khi nghĩ đến dụ ngôn được tìm thấy trong Phúc Âm Thánh Matthêu (21: 33-43). Trong dụ ngôn đó, Chúa Giêsu chỉ trích hành vi của những người, do sự bất trung của mình, đã huỷ hoại vườn nho được trồng bằng sự hy sinh và lòng tận tuỵ. Trong vườn nho đó, được Thiên Chúa yêu thương, người chủ đã cử các tá điền đến để bảo đảm nó được chăm bón tốt. Nó thuộc về ông; và các tá điền lẽ ra phải chăm sóc nó chứ không chiếm đoạt nó.
Tôi được biết đến cá nhân Đức Bênêđictô XVI trên hết vì khi bắt đầu sứ vụ giáo hoàng của ngài, ngài đã gọi tôi đến Rôma từ Phi Luật Tân, nơi một năm trước đó ngài đã chỉ định tôi làm đại diện giáo hoàng của ngài.
Tôi nhớ rõ cuộc gặp gỡ đầu tiên của chúng tôi; đó là vào đầu tháng 7 năm 2007. Ngài đã bổ nhiệm tôi là Sostituto, hay Phụ tá Quốc vụ khanh Toà Thánh, tức là một trong những cộng tác viên thân cận nhất của ngài. Điều này cho phép tôi đến thăm ngài ít nhất một lần một tuần để nói về những vấn đề gần gũi với tấm lòng của ngài và nhận được sự hướng dẫn thích hợp về nhiều khía cạnh của đời sống Giáo triều và Giáo Hội.
Chức vụ Phụ tá Quốc vụ khanh Toà Thánh cũng được giao trách nhiệm tổ chức các chuyến đi của Đức Giáo hoàng, do đó trong suốt 4 năm tôi tại vị, trước khi được bổ nhiệm làm tổng trưởng Bộ Truyền giảng Tin Mừng cho các Dân tộc, tôi đã có cơ hội tháp tùng ngài đến nhiều quốc gia khác nhau, nơi ngài đã thực hiện các cuộc tông du của mình.
Trong những năm đó, vấn nạn ấu dâm nổi lên với mức độ độc hại như một dịch bệnh trong Giáo Hội. Nó đã không được biết đến trong các thuật ngữ đã dần dần xuất hiện. Nhưng tôi luôn thấy rõ rằng Đức Bênêđictô XVI sẵn sàng đối mặt với nó với quyết tâm.
Trước hết, tôi có thể làm chứng cho sự trung thực sâu sắc và rất cao về mặt đạo đức và trí tuệ của ngài.
Điều này là không thể nghi ngờ, ngay cả khi không thiếu những người ngày nay đang tập hợp lực lượng chống lại ngài. Họ có tự do để làm việc đó, nhưng tôi có thể khẳng định rằng, tôi chưa hề tìm thấy ở ngài bóng dáng hay toan tính nhằm che giấu, giảm thiểu điều gì. Sự nhạy cảm của ngài trong việc giải quyết mọi việc với một ý thức đạo đức sâu sắc không thể bị hồ nghi với sự không chắc chắn hay bất cứ điều gì khác.
Tôi cũng biết rõ sự đau khổ tột cùng của ngài khi đối mặt với những câu hỏi nghiêm trọng của Giáo Hội, và tôi nhớ rõ ràng một câu nói mà ngài thường thốt ra với một tiếng thở dài: “Vực thẳm mà chúng ta rơi vào vì sự khốn nạn của con người mới khó hiểu biết bao!” Điều này khiến ngài đau khổ và đôi khi ngài im lặng trong một thời gian dài. Còn hơn thế nữa nếu những khốn khổ của nhân sinh này đã chạm đến những người trong Giáo Hội.
Ngài có một sự nhạy cảm đáng chú ý đối với các nạn nhân. Khi chuẩn bị cho các chuyến tông du (đến Hoa Kỳ, Úc,...), ngài nhận được yêu cầu gặp gỡ các nạn nhân bị lạm dụng, ngài đã kể cho tôi nghe về họ; ngài muốn biết suy nghĩ của tôi về cách đáp ứng những yêu cầu này.
Tôi có thể khẳng định rằng ngài đã khuyên hai điều rất quan trọng đối với ngài. Thứ nhất là tôn trọng sâu sắc các nạn nhân mà danh tính của họ phải được bảo vệ; do đó, ngài muốn các cuộc họp diễn ra xa khỏi cái nhìn của máy ảnh hoặc các dụng cụ thu hình khác. Ngài không muốn bất kỳ khán giả nào, nhưng ngài muốn tôi nằm trong số rất ít những người có mặt một cách kín đáo.
Thứ hai: Ngài không muốn cuộc gặp gỡ trở thành một loại “tiếp kiến” chỉ với một cái bắt tay đơn giản và một cái nhìn lướt qua, mà là một buổi gặp gỡ cầu nguyện thực sự; nó phải có một chiều kích tâm linh và diễn ra trước mặt Thiên Chúa, Đấng mà từ đó ta phải cầu xin lòng thương xót.
Vì lý do này, ngài chấp nhận ý tưởng rằng các buổi gặp gỡ nên diễn ra trong nhà nguyện, trước Chúa Giêsu Thánh Thể. Vì vậy, sau vài phút cầu nguyện với các nạn nhân, sau những giây phút nặng nề xúc động, ngài sẽ đọc Kinh Lạy Cha với họ; ngài chú ý đến từng người trong số họ, lắng nghe với cảm xúc có thể nhìn thấy và sờ thấy được, và cuối cùng, ngài giao cho mỗi người một chuỗi tràng hạt.
Trong những cuộc gặp gỡ đó, không chỉ có cảm giác về sự sỉ nhục mà các nạn nhân phải chịu đựng, mà còn có sự sỉ nhục của một người trong Giáo Hội, là người không bao giờ có thể tưởng tượng được rằng những hành động hèn hạ đó lại có thể xảy ra, mà bây giờ lại trao ra dầu xoa dịu là lời cầu nguyện và sự an ủi từ tình liên đới nhân danh Thiên Chúa, Đấng đã hạ mình và gánh trên vai thân phận con người và tội lỗi của nó.
Trong mọi cuộc gặp gỡ, luôn có một sự công nhận thực sự rằng con người và tinh thần đã bị xâm phạm. Luôn có một sự phó thác cho Thiên Chúa bởi những anh chị em cảm động tột độ; có một lời khẩn xin tha thứ của toàn thể Giáo Hội dâng lên Thiên Chúa, và có một cam kết rằng Đức Bênêđíctô XVI sẽ kết hợp lòng thương xót và công lý. Điều đó ngài đã làm qua các bước mà trước đây chưa hề tồn tại.
Đây là Đức Bênêđictô XVI, người mà tôi đã biết cận cảnh. Một “mục tử”, một “công nhân” trong vườn nho của Chúa, người luôn có trong trái tim mình - một “lời cầu xin sâu sắc cho tất cả các Giáo Hội” và cho một nhân loại đau khổ, sa ngã và vô thần, phù hợp với những gì ngài đã nói khi ngài đến thăm, vào buổi chiều xa xôi ngày 25 tháng 4 năm 2005, tại Đền thờ Thánh Phaolô Ngoại thành, nơi Vị Tông đồ Dân ngoại yên nghỉ.
VietCatholic