Ấn bản thứ hai
Nguyên bản: COMMUNICATING IN MINISTRY AND
Tác giả: FRANZ-JOSEF EILERS, SVD
***
PHẦN II
TRUYỀN THÔNG MỤC VỤ
1. Thần học Mục vụ và Truyền thông Xã hội
Thần học Mục vụ đã phát triển thành một môn học chuyên biệt vào cuối thế kỷ 18 đặc biệt tại các nước nói tiếng Đức. Thời kỳ đầu, vào khoảng năm 1770, đây là ngành thần học quan tâm tới việc chuẩn bị các linh mục cho thừa tác vụ của họ. Thời ấy, chỉ các linh mục mới được coi là ‘người mục tử’ tiếp nối Đức Kitô mục tử, để ‘chăn dắt’ các tín hữu của Hội Thánh. Mãi đến giữa thế kỷ 20, quan niệm này được mở rộng ra ngoài con người linh mục để bao gồm tất cả những ai bằng cách này hay cách khác dấn mình vào các thừa tác vụ mục tử của Hội Thánh.
Thần học Mục vụ là môn học đem áp dụng thần học vào các lĩnh vực khác nhau của đời sống dân chúng và xã hội. Như thế nó có thể được coi là một môn học liên quan tới việc truyền đạt và chia sẻ đức tin trong đời sống cụ thể hằng ngày của dân chúng. Môn học này bao gồm các việc tông đồ như rao giảng và huấn giáo cũng như Kinh Thánh vì chúng thiết lập, nuôi dưỡng và giữ gìn đức tin của dân chúng. Thần học Mục vụ cũng bao gổm phụng vụ như là một kinh nghiệm của cộng đoàn và cá nhân có sức nuôi dưỡng kinh nghiệm đức tin của họ. Thần học Mục vụ cũng quan tâm tới việc làm thế nào đối xử và khuyên bảo dân chúng trong các khó khăn cá nhân và cộng đoàn của họ, để giúp họ tăng trưởng theo đường lối của Thiên Chúa; giúp họ mở lòng ra nhiều hơn với ơn quan phòng và cứu độ của Thiên Chúa.
Về cơ bản, Thần học Mục vụ bao gồm mọi lĩnh vực của thần học liên quan tới việc chăm sóc dân chúng trong đức tin và đời sống cá nhân của họ với danh nghĩa là Kitô hữu và là những thành viên của một cộng đoàn Kitô giáo.
Ở số 23 của Sắc lệnh Inter Mirifica về Truyền thông Xã hội của Vatican II, các Nghị phụ Công Đồng đã yêu cầu soạn ra một Huấn thị Mục vụ “để bảo đảm rằng mọi nguyên tắc và qui luật của Công Đồng về các phương tiện truyền thông xã hội được đem ra thi hành.” Thần học Mục vụ có một mục tiêu chung như thế, nhưng ở đây nó được giới hạn vào các phương tiện truyền thông xã hội.
Là kết quả của yêu cầu trên, Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio (1971) đề cập đến khá nhiều lĩnh vực khác nhau. Bản văn trình bày hai phương hướng chính: sự cống hiến của truyền thông xã hội cho sự tiến bộ của con người khi xét đến “vai trò và các điều kiện cho các phương tiện truyền thông trong xã hội loài người” (các số 17-100) và “việc dấn thân của người Công giáo trong lĩnh vực truyền thông” (các số 101-180). Trước tiên, phải xét đến các hoàn cảnh của những con người và những xã hội cụ thể trước khi có thể áp dụng các nguyên tắc và kinh nghiệm của Kitô giáo. Điều này đặc biệt đúng đối với truyền thông xã hội trong thừa tác mục vụ. Thần học mục vụ là khoa thần học thực hành, các hoạt động của nó được áp dụng vào đời sống của những con người, vì thế chúng có một chiều kích truyền thông.
Nhìn vào chiều kích này chính là mục đích của Truyền thông Mục vụ. Chẳng hạn, việc giảng dạy đức tin trong huấn giáo và giảng thuyết phải được coi như một tiến trình truyền thông mà Thánh Augustinô đã từng phát biểu rất rõ ràng. Chia sẻ Lời Chúa là một sự kiện truyền thông cũng như việc cử hành phụng vụ là một cách diễn tả sinh động sự hiện diện của Chúa giữa Dân Người. Trong tất cả các hoạt động này, câu hỏi đầu tiên phải hỏi là: Đâu là tình trạng hay hoàn cảnh của những con người (trong và ngoài bản thân họ!) mà vào lúc này đang đối diện với Lời Chúa và kinh nghiệm đức tin và làm thế nào đáp ứng một cách thích hợp để làm cho nó sống động trong hoàn cảnh của những con người này? Văn kiện Gaudium et Spes của Công đồng Vatican II về Hội Thánh trong thế giới hôm nay là một ví dụ điển hình về một phương hướng như thế.
Truyền thông Mục vụ quan tâm tới đời sống và các nhu cầu của các cá nhân cũng như các cộng đoàn trong hiện tình của họ. Truyền thông Mục vụ được ví như ‘người mục tử tốt lành’ đi tìm con chiên lạc và tạo ra các cách thức, phương tiện và điều kiện để những ‘con chiên’ này có thể được sát nhập, nuôi dưỡng hay trở về đàn. Nếu Thần học Mục vụ là thần học về cách ‘người mục tử tốt lành’ đối xử với đàn chiên của mình, thì Truyền thông Mục vụ là chiều kích truyền thông của việc đối xử và quan tâm này. Đây là điều cốt yếu cho mọi sự bởi vì con người là những thành viên của các cộng đồng và các xã hội, sống dựa trên các mối quan hệ. Quan hệ với người khác là một sự kiện cơ bản đối với mọi con người và một mối quan hệ như thế có nghĩa là một sự truyền thông giữa Thiên Chúa với con người và giữa con người với nhau. Chính thực tại thần học sâu xa này là cái cuối cùng xác định Thần học Mục vụ cũng như Truyền thông Mục vụ.
Huấn thị Mục vụ Aetatis Novae đã phác hoạ một số yếu tố ưu tiên cho Truyền thông Mục vụ. Ưu tiên trước hết là bảo vệ các phương tiện truyền thông cơ bản trong các nền văn hoá đang hiện hữu trong các cách và các phương tiện truyền thông ‘truyền thống’. Các điều này có giá trị đặc biệt trong việc chăm sóc mục vụ và việc truyền thông truyền giáo. Ưu tiên này cũng bao gồm việc tăng cường quyền truyền thông như là một quyền cơ bản của con người (số 16).
Một ưu tiên khác nữa là các phương tiện và các chương trình của chính Hội Thánh cho việc truyền thông xã hội, với các cách thức và các phương tiện truyền thông như là một phần cơ bản của mọi thừa tác vụ của Hội Thánh (số 17).
Giáo dục và đào tạo về truyền thông phải là một “phần cốt yếu của việc đào luyện các người hoạt động mục vụ và các linh mục”, để họ có khả năng truyền thông cho mọi người và “biết cách mời gọi người ta đối thoại” (số 18).
Sau cùng, phải đặc biệt quan tâm tới việc chăm sóc mục vụ cho những người “hoạt động chuyên nghiệp trong lãnh vực truyền thông thế tục và các ‘công nghệ’ truyền thông.” Phải cống hiến sự đào luyện thường xuyên cho họ và giúp họ “tích hợp một cách đầy đủ hơn các qui tắc đạo đức vào với hoạt động chuyên môn của họ cũng như vào đời sống riêng tư của họ” (số 19).
2. Truyền thông Mục vụ trong các Văn kiện Hội Thánh
Truyền thông Mục vụ rất nhiều lần được nhắc đến một cách trực tiếp hay gián tiếp trong các văn kiện khác nhau của Hội Thánh về truyền thông.
Đức Thánh Cha Piô XII ở phần cuối Thông điệp Miranda Prorsus (1957) đã nhấn mạnh một cách đặc biệt về nhiệm vụ mục vụ của linh mục trong lĩnh vực truyền thông xã hội. Ngài nói ngài “không thể kết lá thư này mà không nhắc nhớ đến vai trò quan trọng được trao cho người linh mục, đó là họ phải khuyến khích và sử dụng các phát minh ảnh hưởng đến việc truyền thông, không chỉ trong các lĩnh vực khác của hoạt động tông đồ, mà đặc biệt trong chính hoạt động nòng cốt này của Hội Thánh. Họ phải có một sự hiểu biết chắc chắn về tất cả các vấn đề tác động đến linh hồn các Kitô hữu liên quan tới phim ảnh, truyền thanh và truyền hình” (số 151, Ed. Eilers 1977).
“Người linh mục với nhiệm vụ ‘coi sóc các linh hồn’ có thể và phải biết rằng khoa học, nghệ thuật và kỹ thuật có ảnh hưởng mạnh như thế nào khi chúng tác động đến mục đích của con người và đời sống luân lý cũng như tôn giáo của họ. Linh mục hãy học sử dụng các phương tiện này một cách đúng đắn bao có thể theo... bản chất của sứ vụ được uỷ thác cho họ và nhu cầu giúp đỡ đông đảo các linh hồn đòi hỏi. Sau cùng, nếu các nghệ thuật này được linh mục sử dụng một cách hữu ích, thì sự khôn ngoan, tự chủ và tinh thần trách nhiệm của họ sẽ chiếu sáng như một mẫu gương cho mọi Kitô hữu” (số 152-154, Ed. Eilers 1997).
Vaticanô II xác nhận lại nhiệm vụ này và mở rộng ra cho mọi Kitô hữu trong Sắc lệnh Inter Mirifica (1963):
“Mọi con cái Giáo Hội phải đồng tâm hiệp lực, chẳng những không ngần ngại mà còn hết sức hăng say sử dụng những phương tiện truyền thông xã hội cách đắc lực vào các công việc tông đồ khác nhau tuỳ theo những đòi hỏi cụ thể của hoàn cảnh và thời gian. Họ cũng phải ngăn ngừa những dự định tai hại, nhất là ở những miền mà luân lý và tôn giáo đang tiến bộ cần được họ can thiệp khẩn cấp hơn.
Vậy các chủ chăn đáng kính phải cấp tốc chu toàn phận sự mình trong lãnh vực này, vì nó liên hệ chặt chẽ với nhiệm vụ thông thường của các ngài là giảng dạy. Những giáo dân đang sử dụng những phương tiện này cũng phải cố gắng làm chứng về Chúa Kitô: trước hết bằng cách hoàn tất mọi công tác cho thành thạo với tinh thần tông đồ, rồi tuỳ khả năng kỹ thuật, kinh tế, văn hoá và nghệ thuật mà trực tiếp trợ giúp hoạt động mục vụ của Hội Thánh theo phận sự của mình” (số 13, Bản dịch tiếng Việt của GHHV Thánh Piô X, Đà Lạt 1972).
Inter Mirifica cũng coi việc sử dụng các phương tiện truyền thông là một quyền ‘đương nhiên’ của Hội Thánh cho hoạt động mục vụ của mình:
“Như thế Hội Thánh đương nhiên có quyền sử dụng và làm chủ bất cứ loại nào trong các phương tiện truyền thông xã hội đó, tuỳ theo sự cần thiết hay lợi ích cho việc giáo dục Kitô hữu và cho việc mưu cầu phần rỗi các linh hồn. Các vị chủ chăn đáng kính có nhiệm vụ huấn luyện và hướng dẫn các tín hữu thế nào cho họ biết dùng cả những phương tiện này để theo đuổi phần rỗi và sự toàn thiện của mình cũng như của toàn thể gia đình nhân loại...” (số 3, Bản dịch tiếng Việt của GHHV Thánh Piô X, Đà Lạt 1972).
Tầm quan trọng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt điện ảnh, đối với kế hoạch mục vụ đã được nhấn mạnh bởi Huấn thị Mục vụ Communio et Progressio (1971): “Các phát triển (của phương tiện truyền thông) này phải được nghiên cứu kỹ trong kế hoạch mục vụ, vì chúng là những cánh cửa mở ra cho việc sử dụng một cách hiệu quả các phương tiện này trong hoạt động mục vụ...” (số 143).
Nhu cầu về một đường lối mục vụ còn được nhấn mạnh thêm bởi cùng văn kiện trên: “Vai trò của các công cụ truyền thông xã hội trong vận mệnh loài người, các cơ hội và các vấn đề chúng đặt ra trước lương tâm Kitô hữu, tất cả đều cho thấy một nhu cầu bức thiết là phải tìm ra một đường lối mục vụ cho lĩnh vực này. Phải tìm kiếm những người có đào tạo chuyên môn và kinh nghiệm cho công việc này. Cũng phải thiết lập các cơ cấu mục vụ thích hợp, với ngân sách, thẩm quyền và nguồn lực cần thiết” (số 162).
Các chi tiết về một đường lối mục vụ sâu hơn đã được phác hoạ bởi Huấn thị Mục vụ Aetatis Novae (1992), và cũng liên quan đặc biệt tới việc Truyền thông Truyền giáo: “Những người rao giảng Lời Chúa buộc phải lắng nghe và tìm tòi để hiểu những ‘lời’ của những dân tộc và văn hoá khác nhau, để không chỉ học hỏi nơi họ mà còn có thể giúp họ nhận ra và chấp nhận Lời Thiên Chúa. Vì vậy, Hội Thánh phải giữ một sự hiện diện lắng nghe và tích cực trong quan hệ với thế giới - một loại hiện diện vừa nuôi dưỡng cộng đoàn vừa nâng đỡ người ta trong việc tìm kiếm các giải pháp có thể chấp nhận được cho các vấn đề cá nhân và xã hội. Hơn nữa, vì Hội Thánh luôn luôn phải truyền thông sứ điệp của mình một cách thích hợp với mỗi thời đại và các nền văn hoá của mỗi dân tộc và mỗi quốc gia, nên ngày nay Hội Thánh phải truyền thông trong và cho nền văn hoá truyền thông đang phát triển...” (số 8).
Nhu cầu giáo dục và đào tạo các người hoạt động mục vụ đã được chính Huấn thị này lặp lại (số 18): “Việc giáo dục và đào tạo về truyền thông phải là một phần cốt yếu của việc đào tạo các người hoạt động mục vụ và các linh mục. Việc đào tạo và giáo dục này đòi hỏi một số yếu tố và khía cạnh khác nhau. Ví dụ, trong thế giới ngày nay chịu ảnh hưởng mạnh bởi các phương tiện truyền thông, những người hoạt động cho Hội Thánh cần phải có một sự hiểu biết ít là thực tiễn về tác động của các công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thông mới đối với các cá nhân và xã hội. Cũng vậy, họ phải được chuẩn bị để phục vụ cả những người ‘giàu thông tin’ lẫn những người ‘nghèo thông tin’. Họ cần biết cách mời gọi người khác đối thoại, tránh kiểu truyền thông mang tính chất thống trị, bóc lột hay trục lợi...”.
Chăm sóc mục vụ cho những người hoạt động truyền thông là một quan tâm đặc biệt: “Hoạt động truyền thông hàm chứa những áp lực tâm lý đặc biệt và những vấn đề nan giải về đạo đức. Vì các phương tiện truyền thông đóng một vai trò quá quan trọng trong việc hình thành văn hoá hiện đại và khuôn đúc đời sống của vô số cá nhân và toàn thể xã hội, nên điều cốt thiết là những người hoạt động chuyên nghiệp trong lĩnh vực các phương tiện truyền thông thế tục và các công nghệ truyền thông phải thể hiện trách nhiệm của mình với những lý tưởng cao cả và một sự dấn thân phục vụ loài người. Vì vậy, Hội Thánh có trách nhiệm: triển khai và cống hiến các chương trình chăm sóc mục vụ có khả năng đáp ứng chuyên biệt cho các điều kiện làm việc đặc thù và các thách thức luân lý mà những người hoạt động truyền thông chuyên môn phải đối diện...” (số 19).
Đối với việc đào tạo các linh mục tương lai, cuốn ‘Hướng dẫn việc Đào tạo các Linh mục Tương lai về Truyền thông Xã hội’ do Thánh Bộ Giáo dục Công giáo xuất bản (1986) đã vạch ra 3 mục tiêu cho việc chuẩn bị các linh mục về Truyền thông Mục vụ (1986): “a) đào tạo họ trong việc sử dụng đúng đắn các phương tiện truyền thông xã hội... trong các hoạt động mục vụ của họ, khi hoàn cảnh cho phép; b) đào tạo họ trở thành những người thầy và người hướng dẫn người khác... qua việc dạy học, dạy giáo lý, giảng thuyết..., và trở thành những nhà tư vấn, cha giải tội, cha linh hướng; c) và trên hết, tạo cho họ có một não trạng để họ thường xuyên sẵn sàng có những điều chỉnh cần thiết trong hoạt động mục vụ của họ, gồm cả những hoạt động do đòi hỏi của việc hội nhập văn hoá giữa đức tin và đời sống trong những Hội Thánh địa phương khác nhau, trong một thế giới bị ảnh hưởng về tâm lý và xã hội bởi các phương tiện truyền thông và thậm chí đã bị ảnh hưởng bởi tin học và các phương tiện điều khiển từ xa”.
Truyền thông Kitô giáo và đặc biệt Truyền thông Mục vụ phải đóng vai trò dẫn đường và xuất phát từ việc truyền thông của Đức Giêsu Kitô, ‘người truyền thông hoàn hảo’ (Communio et Progressio, số 11), Đấng là và phải là nguồn cảm hứng cho mọi việc truyền thông mục vụ và là mối quan tâm cơ bản của mọi văn kiện Hội Thánh để cổ võ và phát huy lãnh vực truyền thông xã hội của Hội Thánh.
Ngoài các văn kiện trên đây của Toà Thánh , các thông điệp của các Đức Giáo Hoàng vào Ngày Thế giới Truyền thông cũng cống hiến một số hướng dẫn cho việc truyền thông mục vụ. Ngày Thế giới Truyền thông đã được tổ chức từ năm 1968 theo quyết định của Vatican II. Các thông điệp này luôn luôn liên quan tới một đề tài đặc biệt, thường mang một khía cạnh mục vụ nổi bật. Ví dụ, có một số năm trong đó vấn đề gia đình hay các mối quan tâm về gia đình là một đề tài cho ngày ấy (1969, 1979, 1980, 1994, 2004). Có những ngày chọn đề tài là vấn đề giới trẻ (1970, 1985), người già (1982), phụ nữ (1996), và việc cổ vũ công lý và hoà bình (1987, 2003), sự hiệp nhất loài người, tiến bộ, tình liên đới và tự do (1981, 1988, 1991). Cũng có những ngày nói về vai trò của các phương tiện truyền thông khác nhau trong Hội Thánh và đời sống mục vụ như các khía cạnh khác nhau của các phương tiện đại chúng nói chung (1973, 1977, 1989) hay các phương tiện truyền thông đặc biệt như máy tính (1990), băng đĩa nghe nhìn (1993), truyền hình (1994) và phim ảnh (1995).
3. Truyền thông Mục vụ trong các thừa tác vụ của Hội Thánh
Mọi thừa tác vụ của Hội Thánh về cơ bản cũng là các thừa tác vụ truyền thông và có chiều kích truyền thông mục vụ. Các thừa tác vụ của Hội Thánh nhắm đến con người, đặc biệt các tín hữu, để nuôi dưỡng và nâng đỡ họ trong đức tin và đời sống thiêng liêng của họ. Ở đây, quan tâm về truyền thông mục vụ là chia sẻ đức tin trên các bình diện khác nhau của con người. Đó là hình thành và dạy dỗ, kinh nghiệm và cử hành Lời Chúa như là lời sống động và ban sự sống. Chẳng hạn, giảng thuyết và phụng vụ, huấn giáo và chia sẻ Kinh Thánh là những yếu tố cơ bản của truyền thông mục vụ, nhưng cả Diakonia cũng thế, như việc phục vụ người nghèo khổ túng thiếu và quan tâm tới sự phát triển con người. Trong giảng thuyết và phụng vụ, lời và bí tích được làm cho hiện diện giữa cộng đoàn Kitô hữu. Huấn giáo và chia sẻ Kinh Thánh đào sâu và mở rộng bằng nhiều cách khác nhau sự hiểu biết và kinh nghiệm về giáo huấn của Hội Thánh và làm cho Lời Thiên Chúa trở nên sống động hơn nơi các cá nhân và cộng đoàn.
3.1. Giảng thuyết
Một trong các chức năng hàng đầu của truyền thông mục vụ là thừa tác vụ giảng thuyết để truyền thông Lời Chúa cho dân sống quanh chúng ta và được giao phó cho chúng ta coi sóc. Thông thường thừa tác vụ này được dành cho các phó tế hay linh mục trong tư cách thừa tác viên được thụ phong. Trong nghi lễ truyền chức phó tế, khi nhận sách Tin Mừng, họ được bảo: “Hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin, và thực hành điều con giảng.” Để là người truyền thông đáng tin, người giảng thuyết trước tiên cần ‘giảng’ bằng đời sống cá nhân của mình. ‘Chứng tá đời sống’ là cơ sở cho mọi việc truyền thông đáng tin. Chứng tá ấy giúp cho việc rao giảng Lời trở thành đáng tin.
Ngoài việc làm chứng bằng đời sống cá nhân mình, linh mục phải truyền thông Tin Mừng bằng việc giảng Lời. Theo Evangelii Nuntiandi (1975), giảng thuyết luôn luôn là ‘không thể thiếu”. Sau đó, Đức Phaolô VI nói ngài biết rất rõ rằng “con người thời nay không thích nhiều lời; rõ ràng họ thường mệt vì phải nghe, nhất là nghe mà không hiểu các lời nói. Chúng ta cũng biết rằng nhiều nhà tâm lý học và xã hội học quan niệm rằng con người thời nay đã vượt qua nền văn minh của lời nói mà bây giờ đã trở thành vô hiệu và vô dụng; ngày nay họ đang sống trong nền văn minh của hình ảnh” (số 42). Vì vậy Hội Thánh phải “sử dụng các phương tiện của nền văn minh này để truyền đạt thông điệp Tin Mừng”.
Nói như thế không có nghĩa là có thể bỏ qua lời nói. “Tuy nhiên, sự mệt mỏi được tạo ra ngày nay bởi quá nhiều lời nói trống rỗng, và tầm quan trọng của các hình thức truyền thông khác không được làm suy giảm sức mạnh vốn có của lời nói, hay gây ra sự mất tin tưởng vào lời nói. Lời nói vẫn luôn luôn còn giá trị, đặc biệt khi nó mang sức mạnh của Thiên Chúa” (số 42). Vì vậy giảng thuyết vẫn còn cần thiết, nhưng phải có chất lượng. Bài giảng, đặc biệt trong các lễ Chúa Nhật, phải “đơn sơ, rõ ràng, trực tiếp, thích hợp, đặt nền vững chắc trên lời dạy của Tin Mừng và trung thành với Huấn Quyền của Hội Thánh, được sinh động bởi một nhiệt tình quân bình phát xuất từ chính bản chất đặc trưng của nó, đầy hi vọng, nuôi dưỡng niềm tin và kiến tạo hoà bình và hiệp nhất” (số 43). Để lời giảng của linh mục hiệu quả trong việc đánh động tâm hồn người nghe, thì theo văn kiện Presbyterorum Ordinis (1965) của Công đồng Vatican II về thừa tác vụ và đời sống của linh mục, bài giảng phải “diễn giải Lời Thiên Chúa không chỉ một cách chung chung và trừu tượng, nhưng phải áp dụng chân lý vĩnh cửu của Tin Mừng vào hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống” (số 4).
Nguyên tắc “có đức tin là nhờ nghe giảng” của Thánh Phaolô vẫn còn nguyên giá trị hôm nay, bởi vì “nghe giảng dẫn tới đức tin” (Evangelii Nuntiandi số 42; xem Rm 10,17). Đối với việc truyền thông trong giáo xứ, điều này có nghĩa là sử dụng thích hợp các phương tiện kỹ thuật mà chúng ta có. Bắt đầu ngay từ việc lắp đặt và sử dụng tốt micrô nếu thực sự cần thiết trong một hoàn cảnh nhất định. Linh mục cần phải biết hay kiểm tra xem loại micrô nào thích hợp nhất cho nhà thờ của mình, gồm cả hệ thống khuếch âm. Đương nhiên việc này cũng còn phải dựa vào không gian và tình trạng âm thanh của nhà thờ. Đôi khi trong các nhà thờ nhỏ, linh mục vẫn có thể giảng mà không cần hệ thống âm thanh, miễn là linh mục ấy có giọng tốt. Các kỹ thuật về đọc cũng quan trọng. Linh mục không được lúc nào cũng dán mắt vào sách bài đọc, mà phải cố gắng truyền thông với giáo dân sao cho họ nghe bản văn giống như nghe một thông điệp sống động được nói ra, được mở ra từ một lá thư viết hay từ một sự kiện Tin Mừng.
Hơn nữa, bài giảng cần phải dùng một ngôn ngữ sinh động, giúp người nghe có thể hiểu được dễ dàng. Tất cả các phát thanh viên đều biết rằng bản văn họ đọc phải được viết bằng một thứ ngôn ngữ nói, vắn gọn, chính xác, nhưng cũng sinh động và sử dụng các kiểu nói và ví dụ gần gũi với quần chúng. Bí quyết từng giúp cho việc giảng thuyết của các nhà cải cách ở thế kỷ 16 khá thành công chính là lời khuyên của Martin Luther: nhìn ‘miệng’ của dân chúng, nghĩa là tìm hiểu và sử dụng ngôn ngữ của họ (“Den Leuten auf’s Maul schauen”). Đôi khi việc sử dụng các phương tiện khác như các đồ vật, phim chiếu, tranh ảnh, áp phích cũng có thể hữu ích, nhưng không được lạm dụng để biến nó thành các xảo thuật quảng cáo! Giống như với bất kỳ loại trình bày nào, các điệu bộ và sự tiếp xúc bản thân toát ra từ tính cách của người giảng cũng rất quan trọng. Cho nên, việc truyền thông mục vụ bằng giảng thuyết cũng phản ánh rất rõ tính cách, niềm tin và chiều sâu thiêng liêng của người giảng.
Muốn cho Lời Thiên Chúa được nhập thể lại một cách mới mẻ ở thời đại chúng ta, người giảng thuyết phải đưa Lời này đi vào hoàn cảnh cụ thể và các mối quan tâm của con người hôm nay. Có nghĩa là trong bài giảng của mình, linh mục phải làm hết sức mình để gặp gỡ dân trong chính đời sống thường ngày của họ. Một ví dụ hay một kinh nghiệm cụ thể từ đời sống thường ngày, nhất là tại chính địa phương, sẽ trực tiếp lôi kéo được sự chú ý của dân và giúp họ mở rộng lòng để Lời Chúa đi vào trong hoàn cảnh của họ. Các quy tắc báo chí về tầm quan trọng của tin tức có thể rất có ích trong trường hợp này. Một sự kiện càng gần với người ta về thời gian và không gian thì càng có giá trị của tin tức. Một người bị thương trước cửa nhà trong giáo xứ sáng hôm nay thì thu hút sự chú ý của người ta hơn là một sự kiện nào đó xảy ra ở một nơi nào đó trên thế giới. Một quyết định, một tai nạn hay một nhân vật có liên quan tới đời sống hằng ngày của người nghe ở đây và bây giờ thì quan trọng hơn là một điều gì đó có thể đã xảy ra ở đâu đó trên thế giới khoảng 300, 500 hay 1000 năm trước. Tình trạng tăng giá gạo, giá thịt hay giá xăng hôm qua thì được người ta quan tâm hơn là những chuyện đã xảy ra trong vụ khủng hoảng dầu lửa năm 1973. Các câu chuyện về con người luôn luôn thu hút được nhiều thính giả và độc giả. Các câu chuyện về những con người và những niềm sướng khổ của họ tương tự với hoàn cảnh sống của người nghe thì luôn luôn được hoan nghênh. Như lời phát biểu của Evangelii Nuntiandi, có “vô số sự kiện trong cuộc đời và những tình huống nhân loại trở thành những cơ hội làm phát sinh các phát biểu âm thầm nhưng thấm thía về những điều Chúa muốn nói trong hoàn cảnh cụ thể này hay hoàn cảnh cụ thể kia. Chỉ cần có sự nhậy bén thiêng liêng để có thể đọc được thông điệp của Thiên Chúa trong các biến cố” (số 43).
Vì “con người thời nay không thích nhiều lời”, việc giảng thuyết cũng không nên quá dài dòng. Rất nhiều khi một bài giảng vắn gọn, thích hợp và chỉ truyền đạt một thông điệp một cách sinh động lại hiệu quả hơn là một bài diễn giải dài dòng về một vấn đề thần học hóc búa. Một chương trình phát thanh hay truyền hình cũng thế, phải giới hạn chứ không thể kéo dài vô hạn. Hơn nữa, trong nhiều bối cảnh văn hoá hôm nay, người ta có những cuộc hẹn và những kế hoạch phải làm, đặc biệt vào những ngày Chúa Nhật, sau một tuần lễ bận bịu với công việc.
Khi trình bày bài giảng, giảng viên phải luôn luôn ý thức mình là người phục vụ Chúa, chứ không phải là chính Chúa. Trong khi trên radiô và TV, một phát thanh viên giỏi có thể dễ trở thành một ngôi sao nhờ cách trình bày của họ, nhưng giảng viên thì không được ứng xử như một ngôi sao. Họ chỉ là một người phục vụ Lời Chúa, giống như người truyền thông điệp không phải là thông điệp! Có nghĩa là giảng viên không nên cường điệu hay lạm dụng các điệu bộ, phong cách trình bày và ngay cả cách nói của mình. Đây là điểm khác biệt quan trọng giữa giảng thuyết và các phương tiện điện tử hiện đại.
Tuy nhiên, giảng viên phải biết sử dụng các phương tiện khác nhau hiện có để làm cho bài giảng sinh động và đáp ứng các nhu cầu và mong đợi của người nghe. Ngoài việc sử dụng các hình chiếu, áp phích, âm nhạc, thậm chí cả phim ảnh và ca kịch, thì việc tổ chức tốt hình thức giảng-đối thoại, nghĩa là đối thoại với những người tham dự, có thể rất hiệu quả nếu cộng đoàn ấy sẵn sàng tham dự vào sinh hoạt này. Hình thức chia sẻ giữa các người tham dự trong một bài giảng cũng có giá trị như thế.
Biết thính giả là yếu tố tối quan trọng. Rõ ràng người nhận là người mà giảng viên nói với và muốn đạt tới được. Một nguyên tắc cơ bản của truyền thông là trước hết phải biết thính giả. Phải có sự hiểu biết này thì người truyền thông hay người giảng mới có thể chọn lựa nội dung, các hình thức và phương tiện truyền thông thích hợp. Về phần mình, người giảng phải có một nền tảng thần học vững chắc, có đời sống thiêng liêng sâu xa và có kinh nghiệm để chia sẻ. Một nhân cách thiêng liêng sâu xa có sức thuyết phục mạnh hơn là các phương tiện kỹ thuật khác. Như lời Tông huấn về Rao giảng Tin Mừng Evangelii Nuntiandi nói về nhu cầu có Thần Khí: “Các kỹ thuật để rao giảng Tin Mừng là điều tốt, nhưng ngay cả các kỹ thuật tiên tiến nhất cũng không thể thay thế tác động êm dịu của Thần Khí. Sự chuẩn bị của người rao giảng Tin Mừng dù hoàn hảo nhất nhưng không có Chúa Thánh Thần thì cũng không thể mang lại hiệu quả gì. Không có Chúa Thánh Thần, các lý luận thuyết phục nhất cũng chẳng thể nào đánh động được tâm hồn của người nghe. Không có Người, các kế hoạch tinh vi nhất dựa trên cơ sở xã hội học và tâm lý học đều trở thành vô dụng” (số 75).
3.2. Phụng vụ
Thánh Thể và cử hành Lời Chúa, các bí tích và phụng vụ là những lúc truyền thông quan trọng đối với một cộng đoàn và mọi việc chăm sóc mục vụ. Như chuyên gia phụng vụ Josef Andreas Jungmann (1957, 62t) nói: “Hội Thánh có nhiệm vụ đích thực là đưa dân Kitô giáo ngay ở trần gian này gia nhập một cộng đoàn niềm vui để ngợi khen Thiên Chúa, như lời Thánh Phêrô mô tả ơn gọi của Dân Thiên Chúa là “loan truyền các kỳ công của Đấng đã gọi anh em ra khỏi miền u tối để vào nơi ánh sáng diệu huyền...’ (1 Pr 2,9). Đây là điều mà phụng vụ luôn luôn nhắm tới. Qua bao thế kỷ, phụng vụ được cử hành sống động vẫn luôn là hình thức chăm sóc mục vụ quan trọng nhất”. Khi đề cập đến các bí tích như là phương tiện rao giảng Tin Mừng, Evangelii Nuntiandi nói rằng bí tích “thể hiện khả năng đầy đủ của nó khi đạt được mối quan hệ thâm sâu nhất, hay đúng hơn là một mối hiệp thông nội tại vững bền và liên tục giữa Lời và các bí tích... Vai trò của rao giảng Tin Mừng chính là giáo dục đức tin nơi dân sao cho từng cá nhân Kitô hữu có thể sống các bí tích như là các bí tích thực sự của đức tin, chứ không phải chỉ lãnh nhận một cách thụ động hay chịu đựng các bí tích” (số 47).
Trong nghiên cứu của ông về truyền thông và văn hoá (1992), James Carey đã triển khai hai phương thức truyền thông, hai phương thức này cũng giúp ích cho việc hiểu rõ hơn phụng vụ như là truyền thông. Đó là mẫu truyền/tải và mẫu nghi thức. Trong khi mẫu truyền tải quan tâm tới việc truyền đi các thông tin và thông điệp, mẫu nghi thức quan tâm tới việc lưu giữ văn hoá và xã hội. Mẫu thứ hai này “gắn liền với việc biểu diễn hơn là chuyển động, tham dự hơn là hấp thu, ý nghĩa hay vẻ đẹp hơn là chiến lược và kết quả, khêu gợi hay mời gọi hơn là ảnh hưởng hay hiệu quả. Một nghi thức không phải là cái gì đó mà người ta chỉ là khán giả, nhưng là cái mà người ta tham dự vào. Cũng vậy, nó không phải một cái gì có thể xảy ra cho một ai đó, nhưng là cái mà một người nào đó chọn để tham dự” (Rothenbuehler 1998, 125). Mẫu nghi thức của Carey không quan tâm tới ‘tin tức’ nhưng quan tâm tới các cách thức và phương tiện truyền thông để duy trì cấu trúc của xã hội, để chia sẻ, tham dự, liên kết, tạo tình bạn và vui hưởng đức tin và các niềm xác tín chung. Từ đó ta thấy rất rõ mối tương quan với phụng vụ như là một việc cử hành. Phụng vụ không truyền lại thông tin, ngay cả trong bài giảng cũng thế, nhưng là một cuộc cử hành, một sự quy tụ lại với nhau, và cùng nhau cảm nghiệm sự hiện diện và sức mạnh của Thiên Chúa.
Ta có thể so sánh hai phương thức của Carey bằng bảng đối chiếu sau:
|
Mẫu Truyền tải
|
Mẫu Nghi thức
|
Hướng đi
|
Tải/Truyền
|
Nghi lễ
|
Tham dự
|
Người gửi & người nhận
|
Tham dự
|
Ý nghĩa
|
Cái được gửi & được nhận
|
Cái được tạo và tái tạo
|
Hiệu quả
|
Người nhận ‘nhận được nó’;
Truyền tải chính xác
|
Chia sẻ kinh nghiệm/
Cộng đoàn
|
Mục tiêu
|
Ảnh hưởng xuyên thời gian
|
Cộng đoàn xuyên thời gian
|
Mọi cử hành phụng vụ đều là sự “thể hiện” một cách nào đó việc nhập thể của Thiên Chúa bằng lời và bí tích giữa cộng đoàn Dân Chúa. Đỉnh điểm của cử hành này là Thánh Thể như Communio et Progressio (số 11) xác nhận: “Khi lập bí tích Thánh Thể, Đức Kitô ban cho chúng ta hình thức hiệp thông hoàn hảo nhất, thân mật nhất có thể có ở đời này giữa Thiên Chúa và dân Người”. Thực tại này có những hệ quả không chỉ đối với bài giảng và việc giảng thuyết mà còn đối với toàn thể việc cử hành phụng vụ như một tiến trình truyền thông.
Ngay từ hình thể và lối sắp đặt trong phòng hay nhà thờ nơi cử hành phụng vụ cũng đã tạo lập một sắc thái. Mọi người đều biết rằng môi trường thường ảnh hưởng tới con người và hành động của họ như thế nào. Nếu một phòng cử hành phụng vụ sạch sẽ, trang hoàng và bài trí đẹp, nó sẽ giúp rất nhiều cho việc truyền thông tốt thông điệp phụng vụ. Một nhà thờ bẩn thỉu, bừa bãi cho thấy sự yếu kém về truyền thông của cha xứ và giáo dân trong xứ.
Các cách biểu hiện kiến trúc khác nhau trong dòng lịch sử là một sự truyền thông rõ ràng về những tình cảm và khuynh hướng của người Kitô hữu trong các cuộc cử hành vào thời họ. Một vương cung thánh đường kiểu Rôman với tường dày và cửa sổ nhỏ hay một nhà thờ kiểu Gôthic với hầu hết các bức tường đều là những cửa sổ bằng kiếng màu để cho mặt trời và ánh sáng ùa vào trong cung thánh là hai kiểu kiến trúc truyền đi hai thông điệp hoàn toàn khác nhau cho kinh nghiệm và việc cử hành tôn giáo. Một nhà thờ kiểu Barốc với vô số tượng thiên thần có cánh và tượng các thánh là muốn truyền đi cảm giác về thiên đàng ở trần gian. Kiến trúc nhà thờ hiện đại muốn biểu thị những tình cảm và quan niệm của con người thời nay bằng nhiều cách khác nhau. Có khi các nhà thờ này trông giống như những đại sảnh hay những căn phòng đa năng khiến cho đối với một số người, các kiểu nhà thờ ấy thiếu mất cái ‘thánh thiêng’. Phụng vụ và các ngôi nhà để cử hành phụng vụ phải thực sự truyền tải cái ‘thánh thiêng’, vì dù sao nó là một cuộc cử hành chứ không chỉ là một chức năng. Nguy cơ ngày nay có thể là chú trọng nhiều hơn về chức năng. Phụng vụ là một sự kiện truyền thông để cử hành - eucharistia, ‘tạ ơn’ - chứ không chỉ là chu toàn một chức năng hay một bổn phận. Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gợi ý về điểm này trong một cuộc triều kiến dành cho các thành viên Uỷ ban Giáo hoàng về Di sản của Hội Thánh ngày 19-10-2002 khi ngài nói: “Bản chất cơ bản của di sản văn hoá của Hội Thánh không cho phép tách rời sự đánh giá thẩm mỹ khỏi mục tiêu tôn giáo của hoạt động mục vụ. Một thánh đường, chẳng hạn, đạt được sự hoàn thiện ‘thẩm mỹ’ của nó chính vào lúc cử hành các mầu nhiệm thánh, bởi vì chính lúc ấy là lúc nó chiếu toả ý nghĩa đích thực nhất của nó. Các yếu tố về kiến trúc, hội hoạ, điêu khắc, âm nhạc, ca hát và ánh sáng tạo thành một phần của sự phối hợp duy nhất để đón chào cộng đoàn tín hữu đến với các cuộc cử hành phụng vụ, một cộng đoàn gồm những ‘viên đá sống động’ làm nên ‘toà nhà thiêng liêng’ (x. 1 Pr 2,5).”
Trong một cuộc hội thảo dành cho các linh mục về tình trạng thiếu ơn gọi linh mục, Giám mục Franz Kamphaus (, Đức) đã nói rằng việc thiếu các nhà thờ cũng là một lý do. Ngài nói rằng vào thập niên 1970, tại Đức người ta xây dựng các trung tâm giáo xứ hay giáo đoàn thay vì các nhà thờ. Vì thế, giáo dân không còn phải đi tìm lương thực thiêng liêng ở một nơi nào khác nữa. Họ sẽ cảm nghiệm được đời sống cộng đoàn nhưng thiếu mất những điều linh thiêng được diễn tả nơi các toà nhà như các thánh đường. Chiều kích hàng ngang, xã hội, được nhấn mạnh, nhưng người ta mất đi chiều kích hàng dọc, dấu chỉ từ trên mà trước đây có thể được diễn tả nơi một cái tháp chuông nhà thờ.
Cũng như một vở kịch cần có một sân khấu tốt để cuộc biểu diễn đạt hiệu quả, thì cũng thế, phụng vụ cần có một khung cảnh thích hợp, bởi vì suy cho cùng phụng vụ chính là vở kịch cứu chuộc được diễn lại trong thời đại chúng ta. Nhìn phụng vụ như là vở kịch cứu chuộc sẽ dẫn đến những hệ quả cho việc cử hành. Nếu linh mục phụ tế và các phụ tế của ngài không muốn hay không có khả năng ‘đóng’ đúng vai của họ trong khung cảnh phụng vụ, họ sẽ không thể thực sự truyền thông Tin Mừng. Phụng vụ là một sự kiện với các quy tắc và luật lệ để làm cho sức mạnh cứu độ của các bí tích tuôn ra một cách khách quan. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là các cuộc cử hành phụng vụ không thể biến thành những cơ hội để người chủ tế phô trương bản thân mình một cách chủ quan và cường điệu, ứng xử giống như một ‘ngôi sao’. Trong phụng vụ có chỗ cho một linh mục dấn thân và sốt sắng, chứ không có chỗ để một người phô trương, dù người ấy có những ý hướng thánh thiện đến đâu. Đây là sự khác biệt giữa một số người rao giảng trong các cuộc trình diễn trên TV của ‘nhà thờ điện tử’ và các cuộc cử hành phụng vụ đích thực.
Vì phụng vụ là một sự kiện mang kịch tính, nó sử dụng các dấu hiệu và biểu tượng để truyền thông. Tuy nhiên, dựa vào khoa ký hiệu học, chúng ta biết rằng các biểu tượng là các dấu hiệu có một ý nghĩa được nhiều người hiểu và chấp nhận. Nếu những người tham dự phụng vụ không thể hiểu và chia sẻ ý nghĩa này, thì sự truyền thông bị khiếm khuyết nghiêm trọng. Mặt khác, trong thực hành, điều này đòi hỏi linh mục phải chắc chắn là các giáo dân tham dự hiểu được các biểu tượng và ‘ngôn ngữ’ của phụng vụ cùng với ý nghĩa của chúng. Có thể cần cung cấp thêm thông tin để họ hiểu rõ hơn các biểu tượng phụng vụ hầu đạt được một sự truyền thông dẫn đến hiệp thông và chia sẻ cộng đoàn (agapê). Mặt khác, linh mục chủ tế và các phụ tế trong phụng vụ cũng phải ý thức rằng cần phải thể hiện và thi hành đúng đắn các biểu tượng này thì sự truyền thông thực sự mới có thể xảy ra. Chỉ khi có sự cắt nghĩa đầy đủ và thi hành đúng đắn các dấu hiệu và biểu tượng thì mới có thể dẫn tới kinh nghiệm trọn vẹn về nội dung của chúng. Phụng vụ có một vai trò truyền thông phải thực hiện, và nó sẽ chỉ có hiệu quả khi người ta tôn trọng các qui luật về sự tương tác xã hội và truyền thông xã hội. Truyền thông mục vụ quan tâm tới sự hiểu biết và động lực của tín hữu để có một sự tham dự đầy đủ vào phụng vụ và bí tích.
Trong chương trình mục vụ vạch ra cho Tổng Giáo phận , TGM Carlo Martini đã nêu lên sự thật là Phụng vụ cũng giáo dục về sự truyền thông. “Phụng vụ đóng vai trò trung gian giữa việc chiêm niệm bên trong đầy tràn ân huệ của Lời và cách diễn tả công khai bên ngoài của sự thờ phượng và ngợi khen. Điều này không chỉ đúng đối với phần bên ngoài của ‘nghi thức’ và việc ‘cử hành’ hữu hình giàu ký hiệu và biểu tượng. Nó cũng đòi hỏi và nuôi dưỡng đời sống nội tâm của tín hữu; nó giáo dục và uốn nắn chúng ta để có sự truyền thông chân thực với Thiên Chúa. Nó gợi ra những lời và những thái độ thích hợp, và phát sinh một cộng đoàn được gọi để đối thoại trong đức tin và đời sống. Vì vậy, khi được hiểu một cách toàn diện (chứ không chỉ trong khía cạnh lễ nghi của nó), phụng vụ giáo dục chúng ta để biết truyền thông. Cộng đoàn tự diễn tả và thể hiện mình tuỳ theo mức độ nó có khả năng lắng nghe Lời Chúa trong cộng đoàn và có sự đáp ứng công khai thích hợp” (số 60).
Về việc phát sóng các nghi thức phụng vụ trên các Phương tiện Đại chúng, văn kiện Sacrosanctum Concilium (1963) của Công đồng Vatican II về Phụng vụ đòi hỏi rằng việc phát sóng các nghi thức thánh, đặc biệt trên các phương tiện đại chúng như truyền thanh và truyền hình, phải được thực hiện “một cách thận trọng và xứng đáng, dưới sự trông coi và chịu trách nhiệm của một người thích hợp được giám mục chỉ định” (số 20).
Vào thời kỳ truyền hình bắt đầu trở thành phổ biến, đã có một cuộc tranh luận khá sôi nổi giữa những nhà thần học hàng đầu, trong đó có Karl Rahner, về câu hỏi là cuộc cử hành Thánh Thể có thật là một sự kiện công cộng có thể được truyền đi bởi các phương tiện truyền thông hiện đại hay không. Người ta lý luận rằng vào thời kỳ đầu của Hội Thánh, chỉ những người đã được khai tâm qua bí tích rửa tội mới được chấp nhận tham dự đầy đủ việc cử hành phụng vụ, còn mọi người khác đều không được. Cử hành Thánh Thể không thể là một sự kiện công cộng khi nó được truyền đi qua các phương tiện truyền thông đại chúng, đặc biệt qua truyền hình. ‘Kỷ luật bí truyền’ của Hội Thánh thời kỳ đầu cũng vẫn phải được tôn trọng hôm nay.
Theo quan điểm ấy, người ta có thể đặt câu hỏi về việc phát sóng Thánh lễ từ một phòng quay TV. Dứt khoát sẽ là điều tốt hơn nếu thánh lễ được cử hành và phát sóng từ một nơi thánh mà những người tham dự bằng TV cũng có thể nhìn thấy được.
Các cuộc phát sóng truyền thanh và truyền hình phải đặc biệt hữu ích cho những người già cả và bệnh tật không thể đi đến nhà thờ, nhưng bằng cách này họ cũng có thể phần nào tham dự cuộc cử hành Thánh Thể. Từ nhiều năm nay, kênh truyền hình Đức ZDF đã triển khai thành công một phương thức theo kiểu này, trong một thời gian dài, các cuộc phát sóng thánh lễ luôn luôn được truyền đi từ cùng một nhà thờ và với cùng những linh mục chủ tế. Bằng cách này, họ đã giúp cho những người tham dự trên TV có một cảm giác thoải mái ‘giống như ở nhà’. Bằng cách này, họ cảm thấy mình là một thành phần của ‘giáo xứ của mình’ này, và thậm chí còn được mời tham gia hát chung các bài hát lấy từ cuốn thánh ca cộng đồng “Gotteslob” với các con số được chiếu lên một khung trên màn hình.
Bất cứ cuộc phát sóng các hành vi phụng vụ nào, dù là các cuộc cử hành Thánh Thể hay các cuộc cử hành phụng vụ khác, cũng đều đòi hỏi một tinh thần ‘thận trọng và xứng đáng’ mà cả các chuyên viên kỹ thuật tham gia cũng phải tuân giữ. Đức Giáo hoàng Piô XII ngay từ Thông điệp Miranda Prorsus về các phương tiện truyền thông điện tử cũng đã nói rằng các cuộc phát sóng như thế đòi phải có “trình độ kỹ thuật và tài năng, vì thế cả các linh mục lẫn các giáo dân được chọn để làm công việc quan trọng này đều phải được đào tạo tốt về các phương pháp này” (x. Eilers 1997, số 182).
Hội đồng Quốc gia các Giám mục Công giáo Hoa Kỳ trong phiên họp toàn thể từ tháng 11 năm 1997 đã phê chuẩn “Các hướng dẫn về việc phát sóng truyền hình Phụng vụ”. Tài liệu này nêu lên các nguyên tắc phụng vụ cơ bản sau đây:
* Cẩn thận lưu tâm đến các cách thức hiện diện của Đức Kitô trong phụng vụ, ví dụ Lời Chúa, bánh và rượu Thánh Thể, cộng đoàn tham dự, linh mục (Sacrosanctum Concilium số 7).
* Tuân theo các chỉ dẫn của Hướng dẫn tổng quát về Sách Lễ Rôma.
* Sự tham dự trọn vẹn, ý thức và tích cực của tín hữu.
* Sự toàn vẹn của năm phụng vụ.
* Một bài giảng cho cộng đoàn, đồng thời lưu tâm tới những người xem trên TV.
* Sử dụng thích hợp các thừa tác viên phụng vụ đã được huấn luyện.
* Sử dụng âm nhạc phụng vụ thích hợp với cuộc cử hành.
* Tinh thần đơn sơ trang trọng.
* Sử dụng tốt không gian phụng vụ.
* Bước đi khoan thai, kính cẩn, không vội vã.
* Ý thức và tiếp xúc bằng mắt với cộng đoàn đang xem.
* Thông báo cho người xem biết trong trường hợp Thánh Lễ được thu hình trước.
Về các mẫu phát sóng Thánh Lễ trên TV, tài liệu trên đưa ra các hướng dẫn sau đây:
* “Truyền hình trực tiếp (“Live Telecast”): Lý tưởng nhất là Thánh lễ được truyền hình trực tiếp, theo thời gian thật khi Thánh Lễ đang được cử hành. Ở đây, người xem TV có thể tham gia cầu nguyện với cộng đoàn đang cử hành phụng vụ. Các ngày và mùa phụng vụ được tôn trọng và khung cảnh thờ phượng cũng như cộng đoàn đang thực sự cầu nguyện giúp cho người xem tham dự với một thái độ cầu nguyện chăm chú và tham dự nội tâm.
* Truyền hình phát trễ (“Delayed Telecast”): Mẫu thứ hai là thu băng Thánh lễ Chúa Nhật đang lúc cử hành trong một cộng đoàn địa phương và phát sóng lại một thời gian sau trong chính ngày hôm ấy. Mẫu này kém lý tưởng hơn vì chương trình phát hình tách rời với cuộc cử hành phụng vụ thực sự. Tuy nhiên, mẫu này cũng tôn trọng bản chất của phụng vụ và mùa phụng vụ khi lễ được cử hành (và phát sóng) vào đúng ngày phụng vụ và cho phép những người xem và cầu nguyện trên truyền hình có thể hoà mình với một cộng đoàn thực sự trong lúc cộng đoàn này cử hành phụng vụ. Hình thức này khó hơn đối với các giáo phận và các trạm phát sóng TV bởi vì thời gian quá ngắn giữa lúc thu hình và lúc phát hình, và vì số nhân viên làm việc bị giới hạn vào ngày nghỉ cuối tuần.
* Truyền hình Phát lại (“Pre-recorded Telecast”): Mẫu thứ ba là thu hình trước cuộc cử hành phụng vụ rồi phát sóng vào một ngày khác. Tuy chúng ta biết một số giáo phận không thể dùng hai mẫu trên, nhưng việc sử dụng mẫu thứ ba này đòi phải cẩn thận hơn để có thể khắc phục được các giới hạn của mẫu này:
1. Phụng vụ thu hình trước thường được cử hành ngoài ngày hay mùa phụng vụ (ví dụ, thu hình ‘Thánh lễ Giáng Sinh’ vào ngày Thứ Hai tuần thứ 4 mùa Vọng).
2. Cộng đoàn được thu hình không phải là cộng đoàn thường xuyên tụ họp cho cuộc cử hành phụng vụ. Thường đó là một nhóm người tụ tập lại đặc biệt để thực hiện chương trình phụng vụ truyền hình.
3. Sự hạn chế của thời gian truyền hình thường chi phối nhịp độ của nghi lễ phụng vụ (giới hạn số bài đọc, độ dài của bài giảng, lựa chọn về âm nhạc và các lựa chọn khác) thay vì để cho phụng vụ tiến hành theo nhịp độ tự nhiên.
4. Không được phép biên tập chương trình phụng vụ bằng cách cắt bỏ một số phần của Thánh lễ, hay dùng các hiệu ứng đặc biệt để làm nổi bật phụng vụ một cách giả tạo (ví dụ đặt một hình thánh giá trên bánh thánh lúc truyền phép, ghép thêm các hình ảnh bên ngoài).
5. Cách bố trí và kỹ thuật của phòng thu hình có thể làm chia trí những người tụ họp lại để cử hành Thánh lễ trong khung cảnh ấy, và có thể làm cho chủ tế và các thừa tác viên khác có vẻ là những diễn viên hơn là những người chủ trì việc thờ phượng công cộng”.
Hội đồng các Giám mục còn khuyến cáo rằng “vì bản chất cộng đoàn của kinh nguyện phụng vụ, đôi khi tốt hơn không nên truyền hình Thánh lễ, mà chỉ nên truyền hình một số hình thức cầu nguyện khác như Kinh nguyện ban sáng hay ban chiều, phụng vụ Lời Chúa, hay chia sẻ Kinh Thánh”.
Trình bày các cuộc cử hành phụng vụ trên radiô hay TV không phải là một cuộc “biểu diễn’ giống như nhiều chương trình khác, mà là một việc thờ phượng cần có một số trạng thái nội tâm nơi người sản xuất chương trình lẫn người xem và nghe. Các Hội đồng Giám mục phải triển khai một số qui tắc hướng dẫn việc thực hiện các cuộc phát sóng phụng vụ qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Việc bổ nhiệm một vị đặc trách về lãnh vực này theo nghị quyết của văn kiện phụng vụ của Vatican II là một bước trong hướng đi này.
3.3. Huấn giáo
Huấn giáo được Văn kiện Evangelii Nuntiandi (EN) định nghĩa là học hỏi “qua việc giảng dạy tôn giáo một cách có hệ thống, các giáo huấn cơ bản, nội dung sống động của sự thật mà Thiên Chúa đã muốn truyền lại cho chúng ta và Hội Thánh đã tìm cách diễn tả mỗi ngày một phong phú hơn trong lịch sử lâu dài của mình” (số 44). Văn kiện còn nói rằng việc giảng dạy này có thể không chỉ dừng lại ở các khái niệm mà còn phải đưa tới các mẫu đời sống Kitô giáo. Nói theo thuật ngữ truyền thông, các ‘tin tức và thông tin’ về đức tin phải được truyền lại không chỉ trên bình diện khái niệm mà còn trên bình diện cảm xúc và kinh nghiệm. Phải sử dụng tất cả những phương tiện nào giúp đạt tới mục tiêu này. Vì vậy EN nói thêm rằng huấn giáo sẽ “được lợi rất nhiều... nếu những người dạy giáo lý có những bản văn thích hợp, được cập nhật bằng sự khôn ngoan và tài năng”. Văn kiện nhấn mạnh tầm quan trọng của các sách giáo lý và các dụng cụ dạy giáo lý. Ngay từ thời kỳ đầu của Hội Thánh truyền giáo, tầm quan trọng của các sách như thế cho hoạt động truyền giáo đã được nhấn mạnh trong các bài giảng khác nhau của Bộ trưởng Thánh Bộ Truyền bá Đức tin Francesco Ingoli, người đã bảo vệ nhu cầu của Thánh Bộ là có nhà in riêng của mình. Và nhà in này đã được khai trương chỉ bốn năm sau khi Thánh Bộ được thành lập. Ngài lý luận rằng hoạt động truyền giáo không thể thực hiện được nếu không có sách vở để đến được những nơi mà các người truyền giáo không thể đến được. Đối với việc truyền thông giáo lý và mục vụ, điều quan trọng là phải ý thức về nhu cầu này. Trong một số trường hợp, thậm chí cũng có thể mở một nhà sách nhỏ hay ít là một điểm bán sách huấn giáo và các sách khác về tôn giáo.
Tuy nhiên, truyền thông mục vụ về huấn giáo thời nay không thể chỉ giới hạn vào sách vở. Còn phải sử dụng các phương tiện nghe nhìn, kể cả Internet, cũng như các phương pháp nhóm. Theo văn kiện của Hội đồng Giám mục Châu Mỹ Latinh (CELAM) tại Puebla (1979), các phương tiện truyền thông nhóm rẻ hơn các phương tiện đại chúng, chúng “dễ sử dụng hơn, cống hiến khả năng đối thoại và thích hợp hơn với loại truyền giáo người-với-người, là loại hình khơi dậy sự gắn bó bản thân và dấn thân thực sự”. Khi nói đến các ‘phương tiện truyền thông nhóm’, văn kiện của Thượng Hội đồng Manila (1979, Eilers 1997, tr. 356) muốn nói đến “những phương tiện truyền thông nhỏ và ít đắt tiền hơn... cần ít người điều khiển hơn và thích hợp hơn cho việc tham dự nhóm, như các ảnh chụp và áp phích (ngôn ngữ ảnh), phụng vụ hoạt cảnh, đọc kịch bản sinh động, băng đĩa và hình chiếu (nghe nhìn) và phim 8 ly super”.
Cuốn “Cẩm nang Huấn giáo Tổng quát” năm 1997 cũng xác nhận tầm quan trọng của việc truyền thông nhóm: “Các nhóm đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của con người. Trong huấn giáo cũng thế: đối với các trẻ em, sinh hoạt nhóm giúp vun trồng tính xã hội hoàn hảo; đối với thanh niên, nó thực sự là một nhu cầu cốt yếu để xây dựng nhân cách; còn đối với người lớn, nó phát huy tinh thần đối thọi và chia sẻ cũng như tinh thần đồng trách nhiệm Kitô giáo... Ngoài khía cạnh sư phạm, nhóm Kitô giáo được gọi là một kinh nghiệm cộng đoàn và là một hình thức tham gia vào đời sống Hội Thánh...” (số 159).
Còn về việc sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội nói chung, sách Cẩm nang trên cũng khuyến khích sử dụng mọi phương tiện có thể có. “Trong mọi chương trình huấn giáo được tổ chức tốt, không thể thiếu các phương tiện hỗ trợ ấy” (số 160). Việc sử dụng tốt các phương tiện truyền thông đòi hỏi các giáo lý viên một sự quyết tâm nghiêm túc về sự hiểu biết, tài năng, sự huấn luyện và cập nhật việc sử dụng chúng”. Theo Redemptoris Missio (1990, số 37c), không thể chỉ sử dụng chúng như là phương tiện, mà còn phải có khả năng tích hợp thông điệp Kitô giáo vào một nền ‘văn hoá mới’ được tạo ra bởi các phương tiện truyền thông (số 161). Các giáo lý viên cũng phải để ý tới các nhóm đặc thù trong sứ mạng của họ: “Các chuyên gia về phương tiện truyền thông, là những người mà Tin Mừng có thể được vạch ra như là một chân trời bao la của sự thật, trách nhiệm và nguồn cảm hứng; các gia đình - nơi chịu ảnh hưởng ghê gớm của các phương tiện truyền thông - để bảo vệ họ, nhưng nhất là để giúp họ phát triển khả năng phê phán và giáo dục; thế hệ trẻ, là những người sử dụng và là những chủ thể sáng tạo của các phương tiện truyền thông đại chúng...” (số 162).
Cách riêng đối với huấn giáo dành cho người lớn, không thể bỏ qua vai trò của một thư viện giáo xứ. Phải cung cấp cho những giáo dân quan tâm các sách và phim ảnh học tập cũng như các tài liệu giải trí tốt truyền thông các giá trị Kitô giáo.
Ngay từ thời Trung Cổ, kịch tuồng và rạp hát đã từng được dùng để giảng dạy giáo lý và tôn giáo cho giáo dân trong các giáo xứ. Không được quên hình thức này cả trong hoạt động truyền thông mục vụ ngày nay, đặc biệt nếu muốn đa dạng hoá các hoạt động ấy cho các nhóm lứa tuổi khác nhau như trẻ em, thanh niên và người lớn. Việc này cũng đòi hỏi một sự dấn thân đặc biệt của thành phần giáo dân.
Trong Tông huấn Ecclesia in Asia (1999), Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã lặp lại nghị quyết của Thượng Hội đồng Giám mục tại Châu Á về Huấn giáo là đi theo “một khoa sư phạm khêu gợi, dùng các câu truyện, các dụ ngôn và biểu tượng đặc trưng của phương pháp luận Châu Á trong giảng dạy”. Ngài nói: “Sứ vụ của chính Chúa Giêsu cho thấy rõ giá trị của sự tiếp xúc cá nhân, nó đòi người rao giảng Tin Mừng quan tâm tới hoàn cảnh của người nghe, để cống hiến một sự loan báo thích hợp với mức trưởng thành của người nghe, và sử dụng hình thức và ngôn ngữ thích hợp...”. Cũng vậy, Đức Giáo Hoàng khuyên dùng các “phương pháp kể truyện gần gũi với các hình thức văn hoá của Châu Á” (số 20).
Các công nghệ truyền thông hiện đại đem đến những thách thức cũng như những tiềm năng mới. Sơ Angela Ann Zukowski ở Đại học trong một tiểu luận nhan đề “Biên giới mới, Tích hợp các phương tiện và công nghệ truyền thông trong thừa tác vụ (2002)” đã đề nghị một chiến lược mười điểm để chuyển đổi khuôn mẫu trong Huấn giáo hiện đại. Chị viết: “Có rất nhiều phương tiện truyền thống vẫn còn giá trị cho huấn giáo hôm nay. Tuy nhiên, sự ra đời của các phương pháp học tập hoàn toàn mới mẻ là một thách thức để các nhà huấn giáo nghiên cứu và khám phá xem các phương pháp mới này có thể kích thích và nâng đỡ thừa tác vụ của chúng ta như thế nào. Vậy chúng ta cần phải làm gì?”
1. Tích hợp việc đào luyện và kế hoạch truyền thông mục vụ vào trong các chương trình đào luyện tác vụ huấn giáo - ở mọi cấp độ của tác vụ.
2. Xác định rõ các phương pháp luận mới cho huấn giáo được làm giàu bởi nền văn hoá truyền thông.
3. Tích hợp sự hiểu biết về các phương tiện truyền thông vào trong các chương trình đào luyện giáo lý viên, cũng như các chương trình huấn giáo của chúng ta ở mọi cấp.
4. Lập một ngân sách hoạt động vững chắc để nâng đỡ một nền huấn giáo mới bằng cách sử dụng các phương tiện truyền thông mới.
5. Thiết kế lại các môi trường học giáo lý dựa theo các nguồn lực của công nghệ truyền thông, gồm các máy chiếu LCD, các máy tính laptop, màn hình, bảng trắng/bảng thông minh, truy cập Internet, hệ thống chiếu sáng tốt, và các môi trường học tập linh động - bàn, ghế...
6. Tạo một mạng lưới những nhà tiên phong huấn giáo hay những ‘chuyên gia tưởng tượng’ về huấn giáo (giáo phận/giáo xứ), theo sát tốc độ tiến bộ của lĩnh vực nghiên cứu và các phát triển về môi trường học tập mới và các phong cách học tập mới.
7. Xác định các cách thức mới để sử dụng máy tính và Internet cho huấn giáo.
8. Phát triển một dự án Thế hệ Y www cho huấn giáo.
9. Khuyến khích, hỗ trợ và trao thưởng cho các nhà huấn giáo để họ đi tiên phong trong các phương pháp huấn giáo mới trong giáo xứ (hỗ trợ tài chính, kỹ thuật và nhân sự).
10. Phát triển các đường lối hợp tác và đối tác mới bằng cách cống hiến các kinh nghiệm học tập từ xa về đào luyện đức tin người lớn”.
“Chúng ta có thể quyết định bước vào lãnh địa mới của các phương tiện truyền thông một cách thận trọng”, Sr. Angela viết, “nhưng chúng ta không thể làm ngơ trước các tiềm năng hay cơ hội mà nó có thể cống hiến cho tác vụ huấn giáo của chúng ta”.
Viện Sáng kiến Mục vụ tại Đại học Dayton đã triển khai một Chương trình online đặc biệt dành cho huấn giáo có tên là “Cộng đồng Học tập Ảo để Đào luyện Đức tin” (VLCFF=Virtual Learning Community for Faith Formation) nhằm “hỗ trợ thừa tác vụ chuyên nghiệp của Hội Thánh về giáo dục tôn giáo và đào luyện đức tin trong Không gian Điều khiển học (Cyberspace).” Khoảng 20 khoá học khác nhau đã được cống hiến cho các nhân sự trong Hội Thánh quan tâm tới lĩnh vực này (xem www.udayton.edu/vlc).
3.4. Truyền thông Kinh Thánh
Lời và Mặc Khải của Thiên Chúa được truyền cho chúng ta qua phương tiện truyền thông là một cuốn sách. Mọi việc truyền thông mục vụ đều phải xuất phát từ sự kiện này và phải cổ vũ việc phân phối và giải thích đúng cuốn sách này. Nhờ Sách Thánh, sự truyền thông của Thiên Chúa không những được bảo tồn mà còn được đưa vào trong thực tại cụ thể ‘ở đây và bây giờ’ của con người vào mọi thời. Hiến chế Mặc khải Dei Verbum của Vatican II đưa ra lý do thần học cho hoạt động truyền thông mục vụ trong thừa tác vụ Kinh Thánh:
“Những gì Thiên Chúa đã mặc khải để cứu rỗi muôn dân, Ngài đã ân cần sắp đặt để luôn luôn được bảo toàn và lưu truyền nguyên vẹn cho mọi thế hệ. Bởi thế Chúa Kitô, nơi Người Thiên Chúa tối cao hoàn tất trọn vẹn nguồn mặc khải (x. 2 Cr 1,20 và 3,16- 4:6), đã truyền dạy các Tông đồ rao giảng cho mọi người Phúc Âm được hứa trước qua miệng các Tiên Tri cùng được chính Người thực hiện và công bố; các ngài rao giảng Phúc Âm như nguồn mọi chân lý cứu độ và lề luật luân lý (x. Mt 28,19.20; Mc 16,15), đồng thời thông ban cho họ các ân huệ của Thiên Chúa. Việc này đã được thực hiện cách trung thành, một phần do các Tông đồ: hoặc qua lời giảng dạy, gương lành và các thể chế các ngài đã truyền lại những gì đã nhận lãnh từ miệng Chúa Kitô khi chung sống với Người và thấy Người hành động, hoặc đã học biết nhờ Chúa Thánh Thần gợi ý; một phần do chính các ngài và những người phụ tá các ngài đã viết lại Tin Mừng cứu rỗi dưới sự linh hứng của cùng một Chúa Thánh Thần” (số 7).
Các vị rao giảng kế tục các Tông đồ tạo thành một truyền thống: “Truyền thống này bắt nguồn từ các Tông đồ và được phát triển trong Hội Thánh nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, các lời nói và sự việc truyền lại được hiểu biết thấu đáo hơn...” (số 8).
Cách thức Thiên Chúa truyền thông và mặc khải còn được Dei Verbum nói rõ hơn: “Những gì Thiên Chúa mặc khải mà Thánh Kinh chứa đựng và trình bày đều đã được viết ra dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần...” (số 11) và “Trong Kinh Thánh, Thiên Chúa đã nhờ loài người và dùng cách nói của loài người mà phán dạy... Người giải thích Thánh Kinh phải cẩn thận tìm hiểu điều các thánh sử thực sự có ý trình bày và điều Thiên Chúa muốn diễn tả qua lời lẽ của họ” (số 12).
Ở chương VI về “Thánh Kinh trong đời sống Hội Thánh,” văn kiện Công Đồng nói rằng Hội Thánh luôn luôn tôn kính Thánh Kinh vì là một phương tiện đặc biệt Thiên Chúa dùng để truyền thông cho chúng ta (số 21). Vì vậy cần phải tạo sự dễ dàng cho việc đọc Kinh Thánh (số 22) và phải hằng ngày đào sâu hiểu biết về Kinh Thánh (số 23). Văn kiện khẳng định rằng “Thần học dựa trên Lời Thiên Chúa được viết ra...” (số 24), là cách đặc biệt Người dùng để truyền thông. Mọi thừa tác vụ mục vụ như rao giảng, huấn giáo, các bài giảng phụng vụ đều dựa trên cơ sở này. Vì vậy việc say mê đọc Kinh Thánh, học hỏi và cầu nguyện đều bắt nguồn từ cơ sở này và việc phân phối và cung cấp Sách Thánh là cần thiết (số 25).
Một văn kiện Toà Thánh về ‘Chú giải Kinh Thánh trong Hội Thánh’ ngày 4-4-1993 của Uỷ ban Giáo hoàng về Kinh Thánh mô tả ‘nguyên tắc truyền thông’ cơ bản của Thiên Chúa như sau: “... Từ đầu Cựu Ước trở đi, Thiên Chúa đã sử dụng mọi khả năng của ngôn ngữ loài người (truyền thông), đồng thời chấp nhận để cho Lời của Người bị giới hạn bởi những hạn chế của ngôn ngữ loài người”.
Cũng văn kiện này đã nói rõ thêm các ưu tiên cụ thể cho việc truyền thông trong thừa tác vụ Kinh Thánh. Uỷ ban Giáo hoàng về Kinh Thánh thấy có 3 lĩnh vực cơ bản cho vai trò và chức năng đặc biệt của phương tiện truyền thông xã hội trong việc truyền thông Kinh Thánh:
a. Trong đoạn nói về “Các đặc tính của việc chú giải Công giáo” (chương III), văn kiện nhấn mạnh rằng việc xuất bản các tác phẩm chú giải “đóng một vai trò hết sức quan trọng trong sự tiến bộ và phát triển của công trình chú giải”. Ngoài các ấn bản bằng sách in, văn kiện cũng nhắc đến “các phương tiện truyền thông mạnh hơn và nhanh hơn (Radiô, TV, và các phương tiện điện tử khác)” và nói rằng “biết cách sử dụng các phương tiện này là điều rất có lợi”. Về lĩnh vực nghiên cứu, văn kiện coi “việc xuất bản ở trình độ hàn lâm cao” như là “phương tiện chính để đối thoại, thảo luận và hợp tác...”. Các mức độ xuất bản khác cố gắng thích nghi với “các thành phần độc giả khác nhau, từ những người trí thức tới những trẻ em tuổi học giáo lý... Các nhà chú giải có năng khiếu về phổ cập kiến thức cống hiến một công việc vô cùng hữu ích và hiệu quả... Trong lĩnh vực này, nhu cầu biến thông điệp Kinh Thánh thành một điều gì hiện thực cho hôm nay là một nhu cầu ngày càng hiển nhiên...”. Đối với việc truyền thông xã hội, nhà chú giải có nhu cầu và nghĩa vụ “dọi ánh sáng vào chính bản văn Kinh Thánh, giúp người ta quí chuộng nó vì chính nó và ngày càng hiểu rõ hơn về tính xác thực lịch sử và chiều sâu thiêng liêng của nó”.
b. Về “Chú giải Kinh Thánh trong Đời sống Hội Thánh” (Chương IV), văn kiện đặc biệt nhắc đến việc hiện thực hoá và hội nhập thông điệp Kinh Thánh, cơ bản đây là một nhiệm vụ truyền thông. Nhiệm vụ này “giả thiết một cố gắng chú giải, có mục đích vượt qua sự chi phối của lịch sử để xác định những điểm nòng cốt của thông điệp” trong việc “trung thực tìm cách khám phá xem bản văn muốn nói gì vào thời nay.” Về nhiệm vụ chú giải này, văn kiện thấy có ba bước: 1) “Nghe Lời từ trong tình huống cụ thể của mỗi người; 2) Xác định những khía cạnh của hoàn cảnh hôm nay cần được nhấn mạnh hay đặt thành vấn đề bởi bản văn Kinh Thánh; 3) Rút ra từ ý nghĩa đầy đủ trong Kinh Thánh những yếu tố có thể giúp cải thiện tình huống hiện tại sao cho nó trở nên hiệu quả và phù hợp với ý muốn cứu độ của Thiên Chúa trong Đức Kitô”. “Nhờ việc hiện thực hoá, Kinh Thánh có thể dọi ánh sáng trên nhiều vấn đề hiện nay…”.
Để hội nhập Kinh Thánh, các nguyên tắc về truyền thông liên văn hoá phải được áp dụng (x. Eilers 1992). Cùng văn kiện năm 1993 trên đây đã chứng minh điều này bằng cách đưa ra ví dụ cho thấy rằng “trong việc đưa thông điệp của Đức Giêsu ở vùng Palestin sang vùng văn hoá Do Thái-Hy Lạp,” Kinh Thánh “cho thấy ý hướng nó muốn vượt qua những giới hạn của một thế giới đơn văn hoá”. Trong tiến trình này, “việc phiên dịch các bản văn Kinh Thánh không thể… tự nó bảo đảm một sự hội nhập văn hoá hoàn toàn. Bản dịch phải được kèm theo lời chú giải, để đặt thông điệp Kinh Thánh vào trong tương quan rõ ràng hơn với các lối cảm nghĩ, sống và diễn tả riêng của nền văn hoá địa phương. Từ chú giải, chúng ta bước sang các giai đoạn khác của sự hội nhập văn hoá để dẫn tới sự hình thành các nền văn hoá Kitô giáo địa phương, mở rộng ra tới mọi khía cạnh của đời sống.. Đây không phải một tiến trình một chiều; nó bao gồm sự ‘làm giàu lẫn cho nhau’…”.
c. Sau khi bàn về việc xuất bản, hiện thực hoá và hội nhập văn hoá, văn kiện Toà Thánh này khi nói về thừa tác vụ mục vụ đã nhắc đến “tầm quan trọng ngày càng tăng của các phương tiện truyền thông đại chúng (‘Mass Media’), báo chí, truyền thanh, truyền hình”, nó “đòi rằng việc loan báo Lời Chúa và hiểu biết Kinh Thánh phải được truyền bá bằng các phương tiện này. Các tính năng rất đặc trưng của chúng và khả năng ảnh hưởng tới đông đảo quần chúng đòi phải có một sự huấn luyện đặc biệt về việc sử dụng chúng. Sự huấn luyện này sẽ giúp tránh được những việc làm ngẫu hứng vụn vặt, với những hiệu quả bề ngoài có vẻ ấn tượng nhưng thực ra rất nghèo khiếu thẩm mỹ...”.
Trong cuộc triều yết dành cho các nhà nghiên cứu Kinh Thánh và các chuyên gia truyền thông ngày 28-9-1998, ĐTC Gioan Phaolô II đã bày tỏ quan điểm của ngài về mối tương quan giữa các phương tiện truyền thông và việc truyền thông Kinh Thánh như sau: “Khi cuộc gặp gỡ giữa mặc khải của Thiên Chúa và các phưong tiện truyền thông hiện đại được thể hiện với lòng tôn trọng sự thật của thông điệp Kinh Thánh và với việc sử dụng đúng đắn các phương tiện kỹ thuật, nó sẽ mang dồi dào hoa trái tốt lành. Một mặt, nó có nghĩa là nâng các phương tiện truyền thông lên một trong những nhiệm vụ cao quí nhất, và có thể nói là cứu chuộc chúng khỏi các cách sử dụng không đúng đắn và đôi khi rất vụn vặt. Mặt khác, nó cống hiến những khả năng mới và phi thường để đưa đông đảo quần chúng đến với Lời Chúa được truyền thông vì phần rỗi loài người. Cần lưu ý ngay rằng bản chất của Kinh Thánh có hai tính năng cơ bản không giống nhau nhưng liên hệ mật thiết với nhau. Một mặt, chúng là chiều kích siêu việt tuyệt đối của Lời Chúa, và mặt khác, nó cũng là chiều kích quan trọng không kém của sự hội nhập văn hoá của nó. Vì chiều kích thứ nhất, Kinh Thánh không thể bị giản lược vào các lời nói của loài người mà thôi, vốn chỉ là một sản phẩm thuần tuý của văn hoá. Nhưng vì chiều kích thứ hai, nó chia sẻ một cách tất yếu và sâu xa lịch sử loài người và phản ánh các yếu tố văn hoá của lịch sử loài người. Chính vì lý do này - đây là hệ quả quan trọng - Lời Thiên Chúa có ‘khả năng được lan truyền trong các văn hoá khác sao cho nó có thể đến được với mọi người trong bối cảnh văn hoá họ sống...’. Sự gặp gỡ quan phòng này giữa Lời Thiên Chúa và các nền văn hoá loài người tự bản chất của nó đã chứa đựng mặc khải và phản ánh cái ‘logic’ của Nhập Thể. Như Công đồng Vatican II nhấn mạnh trong Hiến chế Mặc khải Dei Verbum: ‘Các lời của Thiên Chúa được diễn tả bằng ngôn từ của loài người nên giống với ngôn ngữ loài người về mọi phương diện, giống như Ngôi Lời của Chúa Cha Hằng Hữu khi mặc lấy xác thịt yếu đuối của loài người, đã trở nên giống như loài người’ (số 13). Nguyên tắc chung này có một ứng dụng đặc biệt trong các phương tiện truyền thông đại chúng. Vấn đề là phải giúp đỡ sự chuyển đổi, hay chính xác hơn, sự di dời từ một dạng ngôn ngữ này sang một dạng ngôn ngữ khác; di dời từ ngôn ngữ viết mà phần lớn còn đang ngủ quên trong lòng của các tín hữu, trong ký ức của rất đông đảo con người, sang dạng truyền thông bằng mắt của phương tiện ‘hư cấu’ điện ảnh, có vẻ hời hợt bên ngoài, nhưng về một số phương diện lại mạnh hơn và cuốn hút hơn các dạng ngôn ngữ khác...”.
Thể hiện truyền thông Kinh Thánh qua “việc tông đồ Kinh Thánh’ bao gồm mọi hoạt động nhằm truyền bá Kinh Thánh như một cuốn sách và nhờ đó sát nhập Lời Thiên Chúa vào đời sống của con người. Việc in và phát hành các sách Kinh Thánh là một hoạt động có liên quan tới việc xuất bản sách, theo cách nói của lãnh vực truyền thông. Các phương pháp khác nhau để ‘nhập thể’ thông điệp Kinh Thánh trong đời sống con nguời có thể là sự truyền thông liên nhân vị, nghĩa là chia sẻ giữa hai hay ba người với nhau. Tuy nhiên, lắm khi chúng theo các quy luật và phương pháp truyền thông nhóm (x. Eilers 2002, tr. 195-211).
Một trong các phương pháp lâu đời nhất được dùng trong đời sống đan tu là Lectio Divina, có thể làm riêng mỗi cá nhân hay trong nhóm. Phương pháp này đi theo 5 bước: 1) Lectio (‘đọc’), đọc bản văn như Lời sống động của Thiên Chúa đang nói với cá nhân tôi, chứ không phải chỉ xem để lấy thông tin; 2) Meditatio, (‘suy’) suy niệm về các lời đã nghe hay đọc; 3) Oratio (‘cầu nguyện’), để cho suy tư biến thành kinh nguyện đáp lại lời vừa nghe; 4) Contemplatio (‘chiêm ngắm’), để cho mọi sự chìm sâu vào lòng tôi và hấp thu nó, và 5) Actio (‘hành động’), đưa các kinh nghiệm Kinh Thánh vào hành động và đời sống.
Một phương pháp khác đã được triển khai bởi Viện Truyền giáo Lumko tại Nam Phi và đã được Liên Hội đồng Giám mục Châu Á (FABC = Federation of Asian Bishops’ Conferences) điều chỉnh để áp dụng cho phù hợp với Châu Á dưới tên gọi AsIPA (viết tắt của ‘Asian Integral Pastoral Approach’ = Phương pháp Mục vụ Toàn diện cho Châu Á). Phương pháp này có bảy bước: 1) Chúng ta kêu mời Chúa (Cầu nguyện); 2) Chúng ta đọc bài Sách Thánh; 3) Chúng ta rút ra các lời và suy niệm; 4) Chúng ta thinh lặng để Chúa nói trong chúng ta; 5) Chúng ta chia sẻ điều chúng ta đã nghe trong lòng mình; 6) Chúng ta thảo luận về công tác mà nhóm chúng ta được kêu gọi để làm; 7) Chúng ta cùng nhau cầu nguyện một cách tự phát.
Các phương pháp chia sẻ Kinh Thánh khác có các yếu tố tương tự mà tất cả sử dụng phương pháp truyền thông nhóm cách này hay cách khác. Truyền thông Kinh Thánh không chỉ là truyền đi thông tin hay tin tức theo hàng thẳng, theo mẫu truyền tin của James Carey (1992, tr. 18). Đúng hơn, nó đi theo mẫu truyền thông nghi thức của ông, mẫu này coi việc truyền thông như là sự kiện cường cộng đoàn và xã hội, bằng cách cống hiến một kinh nghiệm truyền thông có tác dụng xây dựng, củng cố, tác động và khẳng định đời sống và cơ cấu bên trong của một người và cộng đoàn. “Theo định nghĩa nghi thức,” Carey viết, “truyền thông gắn liền với các thuật ngữ như ‘chia sẻ,’ ‘tham dự,’ ‘liên kết,’ ‘tình bạn,’ và ‘sở hữu chung một đức tin’... Quan niệm nghi thức về truyền thông không hướng tới việc quảng bá thông điệp trong không gian mà hướng tới việc duy trì một xã hội trong thời gian; không phải là hành vi truyền đạt thông tin mà là sự biểu thị các niềm tin chung”.
3.5. Diakonia
Ngay từ thời kỳ đầu, Hội Thánh đã thể hiện mình trong 3 khía cạnh là rao giảng (Kerygma), cộng đoàn (Koinonia) và phục vụ (Diakonia). Theo cách riêng của mỗi khía cạnh, cả ba đều là những biểu hiện truyền thông về cứu độ. Mỗi thứ cũng cần có những cách thức và phương tiện truyền thông ở những bình diện khác nhau để hoàn thành nhiệm vụ của mình.
Đức Giêsu Kitô cứu giúp những người đau khổ bằng việc chữa bệnh, cho của ăn và trừ quỉ. Chẳng hạn Người ban cho mỗi người những dấu hiệu về tình thương của Thiên Chúa một cách rất cụ thể. Người cũng tái lập lại dòng truyền thông đã bị cắt đứt với Chúa Cha bằng cách tha thứ tội lỗi trước khi thân thể được chữa lành. Người đặt ra một dấu hiệu về tình thương và quyền năng chữa lành của Thiên Chúa và đưa con người trở vể với Chúa Cha.
Cộng đoàn đầu tiên của các tông đồ chăm sóc cho những người nghèo ở giữa họ. Thực vậy, họ đặt mọi sự làm của chung. “Tất cả các tín hữu chỉ có một lòng một ý. Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung... Trong cộng đoàn, không ai phải thiếu thốn...” (Cv 4,32.34). Như vậy, cộng đoàn đầu tiên không chỉ truyền thông tình thương và sự chăm sóc của Thiên Chúa giữa họ, mà còn trở thành một dấu chỉ cho thế giới bên ngoài vào thời họ: Xem kìa, họ yêu thương nhau biết bao! Hình ảnh công khai của Hội Thánh thời đầu là sự truyền thông về tình yêu và sự chăm sóc của các tín hữu.
Trong các thư của ngài, Thánh Phaolô bảo đảm với các tông đồ và với cộng đoàn Giêrusalem rằng ngài cũng quyên góp sự trợ giúp của các tín hữu thuộc các cộng đoàn mà ngài đã lập. Ngài cũng gửi quà đến cho những người túng thiếu như một dấu chỉ của tình liên đới với người nghèo (x. Pl 4,18-20; 1 Cr 16,1-3; Gl 2,10; 6,10;...). Các ‘trợ tá’ đầu tiên được chọn để lo việc phục vụ (diakonia), nhờ đó các tông đồ có thể rảnh rang hơn để lo việc cầu nguyện và rao giảng (x. Cv 6,1-6).
Diakonia luôn luôn là một dấu hiệu mạnh của Kitô giáo trong việc truyền thông sự chăm sóc của Đức Kitô đối với dân Người. Trong dòng lịch sử, điều này đã được thể hiện bằng các cách diễn tả khác nhau như sứ vụ chữa bệnh cho các bệnh nhân trong các bệnh viện và các trung tâm y tế; nó được diễn tả trong các công cuộc bác ái cho những người nghèo khổ túng thiếu không chỉ về các nhu cầu thể xác và vật chất của họ, mà cả trong việc truyền thông cho họ niềm vui và sức mạnh của sự cảm thông và kiên trì. Trong mọi trường hợp, bằng cách này họ cảm nghiệm được rằng nhân phẩm của họ được nhìn nhận và coi trọng. Việc xoa dịu các đau khổ của họ là một dấu chỉ của bình an và lòng thương của Thiên Chúa... Chúa Giêsu chữa lành các bệnh nhân bằng cách ban lại cho họ khả năng truyền thông với Thiên Chúa và người khác. Các môn đệ của Người cũng sẽ làm y như vậy. Khía cạnh cứu độ và truyền thông này của sự chăm sóc của Thiên Chúa nằm ở tâm điểm của mọi sứ vụ chữa lành của người Kitô hữu chứ không phải là lợi lộc vật chất như đối với một số bệnh viện ngày nay chạy theo lợi nhuận. Đặc biệt tại các nước mà người Kitô hữu là thiểu số, các bệnh viện và sứ vụ chữa bệnh là một dấu chỉ đặc biệt về tình thương của Thiên Chúa và sự quý chuộng phẩm giá con người. Nhiều vị thánh đã hiến cả cuộc đời và sức lực của mình cho sứ vụ này và nhờ đó các ngài trở thành những luồng ánh sáng chiếu dọi tình thương của Thiên Chúa vào một thế giới thường quan tâm nhiều hơn tới của cải và quyền lực. Không chỉ có Thánh Vinh Sơn Phaolô, Camillô de Lellis, Mẹ Têrêsa Calcutta, còn có hàng trăm vị khác nữa giống như các ngài.
Sứ vụ Giáo dục của Hội Thánh cũng đi theo cùng một hướng như thế. Sứ vụ này đã bắt đầu được thực hiện một cách có tổ chức với việc lo cho những người không được đi học, những người không biết chữ. Đặc biệt vào các thế kỷ 16 và 17, nhiều dòng tu đã được lập vì mục đích này, và đặc biệt cũng để lo cho các trẻ gái bị bỏ quên. Ở đây cũng thế, không chỉ có Thánh La San, Don Bosco, Angela Medici, mà còn biết bao vị khác nữa với những sáng kiến tương tự. Nhờ giáo dục và học tập, các học sinh có thể trở thành phần tử của xã hội và có khả năng thông truyền những trực giác và những mối quan tâm của họ cho đại gia đình nhân loại. Các trường Công giáo cũng đi theo các phát triển mới mẻ và tiên tiến qua các trường kỹ thuật của họ, cùng với các phát minh và các tiến bộ về nhân văn, góp phần vào đời sống và sự phát triển của xã hội loài người.
Trong lãnh vực truyền thông, tất cả các sáng kiến và quan tâm này phản ánh và bao gồm các yếu tố sau đây:
* Truyền thông giữa người với người đa phần là nền tảng của mọi hoạt động và sáng kiến này. Không có sự tiếp xúc cá nhân và chia sẻ giữa người với người thì không thể nào có thể phát triển được các sáng kiến lớn. Truyền thông giữa người với người, được Chúa Thánh Thần soi sáng, là tâm điểm của hành động.
* Nhiều công tác phục vụ này cần có các cộng đoàn và các nhóm người để làm việc tập thể trên các sáng kiến này, được nâng đỡ bởi việc truyền thông lẫn cho nhau. Thực ra các cộng đoàn và các nhóm này được lập ra và sống dựa trên sự chia sẻ hỗ tương này, truyền thông các ý tưởng, kinh nghiệm, các đề nghị và sáng kiến trong các kế hoạch và hành động.
* Tất cả các hoạt động và sáng kiến này cũng góp phần tạo nên hình ảnh của cộng đoàn Kitô giáo trước mắt thế giới bên ngoài. Giống như Hội Thánh thời sơ khai, ngày nay việc làm chứng bằng đời sống phục vụ cũng là một dấu hiệu chói sáng cho mọi người xung quanh. Rất thường xuyên ngay cả tại các nước mà dân Kitô giáo chỉ chiếm một thiểu số, ‘ảnh hưởng’ và hình ảnh của họ trước công chúng thường lớn hơn dân số của họ, nhờ các việc phục vụ họ dành cho người nghèo, nhưng cũng nhờ các sáng kiến và hệ thống giáo dục của họ. Nhờ đó đức tin Kitô giáo trở thành một ‘dấu hiệu trên núi’ và một ‘ngọn đèn trong đêm tối’, đồng thời truyền thông niềm hi vọng cả cho những người đã mất hi vọng hay có nguy cơ đánh mất nó.
Cũng có thể nói như thế về nhiều sáng kiến của Kitô giáo cho sự phát triển nhân bản, dù đó là các cơ quan tài trợ hay những người dân thường khi họ chia sẻ cuộc đời với những người còn chưa được ‘gây ý thức’ đủ về phẩm giá hay các khả năng của họ cho cuộc đời. Nhiệm vụ này đôi khi cũng có thể đòi hỏi một sự dấn thân chính trị khôn ngoan để bảo vệ phẩm giá con người.
Các phương tiện và các kỹ thuật truyền thông là cần thiết. Chúng cần được phát triển bằng các cách khác nhau để phục vụ các sáng kiến như thế. Nhưng điều cơ bản là người truyền thông phải có thái độ sẵn sàng và cởi mở để lắng nghe các nhu cầu của người khác và tìm kiếm những khả năng thực tế để thiết lập sự truyền thông với họ và cho họ. Bằng cách này người truyền thông trở thành ‘tiếng nói của những người không có tiếng nói’ và tỏ lộ sự quan tâm, sẵn sàng phục vụ và hiến mình giống như Người Mục Tử nhân hậu.
Còn tiếp
Lm. Franz-Josef Eilers, SVD