Lịch
sử và Tinh thần Nhóm Mân Côi
Bài
5: Công Bố Tin Mừng Cho Người Nghèo
Hugues Rovarino, OP
1. Một chọn lựa
cơ bản
Mối quan tâm ưu tiên đối với người nghèo có nguồn gốc của các Nhóm Kinh
Mân Côi. Sự lựa chọn ưu tiên này thường xuyên được xem xét lại. Ví dụ, trong
một mục báo “Cahiers Marials” năm 1962, người ta có thể đọc:
“Giải pháp mà chúng tôi đề nghị dựa trên sự lựa chọn căn bản: để đặt
Kinh Mân Côi vào tay của tất cả mọi người, điều tốt hơn là trước hết phải xét
đến việc đặt Kinh Mân Côi vào tay của những người có nhu cầu nhất về Kinh Mân
Côi, hoặc vì họ không cầu nguyện và Kinh Mân Côi Sống mang lại cho họ một cái
tối thiểu có sức sống trong lĩnh vực này, hoặc là vì làm việc vất vả nên họ
không thể dành nhiều thời gian để lần chuỗi.
Đó là cách trả lời cho lời khuyên Phúc Âm sâu xa, cho một bí mật chắc
chắn chứa đựng trong Kinh Mân Côi, và Kinh Mân Côi trao tặng cho tất cả những
ai muốn trở thành những con người hành động trong Vương Quốc của Thiên Chúa. Đó
là cách đi đến với những người nghèo khổ nhất, với những người ốm yếu nhất và
những người cô đơn nhất. Nếu Kinh Mân Côi là kho tàng mà Giáo Hội nói, thì
những người hiểu biết nhất trước hết phải bắt đầu cầm trong tay mà lần chuỗi!
Chắc chắn là có một sự chọn lựa ở đó, một mệnh lệnh cấp thiết trong việc
định hướng phải dành cho Kinh Mân Côi. Nhưng sự lựa chọn này, mệnh lệnh khẩn
thiết này, ngay từ đầu đặt chúng ta vào giữa lòng của Giáo Hội”.
2. Đức ái của
lời cầu nguyện được yêu cầu
2.1. Đức ái đề
nghị điều tốt hơn cho mọi người
Vào tháng 3-1964, Cha Eyquem dạy rằng Chị Pauline Jaricot hiểu biết
những điều có thể được mọi người đón nhận. Điều đó không bao gồm sự chiêm niệm,
mà trái lại, vì tất cả điều đó được đức ái gợi hứng! Các Nhóm Mân Côi đều nảy
sinh từ cùng cảm hứng này.
“Chị Pauline Jaricot cũng thuộc về Hội Mân Côi (được đăng ký sinh hoạt
tại Giáo xứ Saint-Nirier ở Lyon) và cùng đọc Kinh Mân Côi mỗi ngày. Tuy nhiên,
chị đã nhận thức được rằng sự bó buộc của Hội đoàn vượt quá khả năng của nhiều
người. Và chị đã đặt họ vào đúng tầm với của chính họ...”.
Và Chị Pauline phó thác: “Vào năm 1826, nhìn chung là đã từ lâu, sự sùng
kính cao đẹp này được dành cho những người đạo đức có lời khấn hứa. (...) Từ đó
dẫn đến kết quả là số những người cam kết thì quá hạn chế trong các giáo xứ và
nó chỉ còn là một lối thực hành bất bình thường trong thế giới... Điều quan
trọng và điều khó khăn nhất là phải làm sao để đưa Kinh Mân Côi đến với đám
đông dân chúng. Những khó khăn này, tôi dám nói là không thể vượt qua nổi và
phải chiến thắng bằng mọi giá và phải ôm ấp nuôi dưỡng Kinh Mân Côi Sống. Kinh
Mân Côi Sống đối với các Kitô hữu sẽ sinh hoa kết trái rất dồi dào...”.
2.2. Theo mối
phúc của người nghèo
Trong “Le Rosaire dans la Pastorale” số ra tháng 1-1971, Cha Eyquem có
đề cập trước tiên đến mối phúc thật của những người nghèo:
“Có thể tôi nhầm, nhưng tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng các Nhóm Mân Côi được
sinh ra từ một nhận thức chắc chắn về mối phúc thật của những người nghèo, từ
một đức tin vững chắc trong lời chúc phúc của Thiên Chúa dành cho những người
nghèo.
Người nghèo là người không ai nghĩ đến, ngoài Chúa Kitô ra, bởi vì họ
không có gì hết cả. Họ không có gì để mang vác cả. Họ không làm cho ai vui cả.
Chính những người được kể là bị bỏ rơi này trở nên cao quý dưới con mắt của
Thiên Chúa. Tôi nghĩ rằng những người cô đơn có đôi mắt sáng sủa do ánh sáng từ
trên chiếu soi cũng có thể biện phân được điều đó. Từ niềm xác tín này đưa đến
một thái độ đối lập với toàn bộ hệ thống chủ nghĩa phụ quyền. Người ta không
làm cho người nghèo giàu lên. Chính người nghèo làm giàu cho chúng ta. (...)
Bởi vì Thiên Chúa ở cùng họ”.
Vào tháng 7-1954, công bố Tin Mừng cho những người nghèo khó cũng là đặc
tính đầu tiên của việc định hướng đã được canh tân của Kinh Mân Côi.
2.3. Biến đổi
tình yêu thành lời cầu nguyện
Cảm hứng, dự án, ước muốn, tất cả những điều đó đều hướng về điều lợi
ích hơn. Một lời cầu nguyện kiểu mẫu diễn tả sự quan tâm mang tính Phúc Âm của
Đức Maria.
2.4. “Sự thăm
viếng” của cuộc gặp mặt hằng tháng
Lời cầu nguyện này của Cha Eyquem nắm trọn vị trí của ngài, trong khi đó
các thành viên của một nhóm cùng khách mời sẽ thực hiện cuộc gặp mặt hằng
tháng. Do đó, hạn từ “nhóm” bộc lộ vẻ phong phú của nhóm. Lời cầu nguyện này có
liên quan đến nhiều mầu nhiệm trong Kinh Mân Côi, đặc biệt là được chiếu sáng
bởi mầu nhiệm thăm viếng của Chúa, lời mời gọi của Chúa dấn thân vào tình bác
ái hiền phụ và lời ca tạ ơn Chúa của bài Magnificat của Đức Maria đang mang
thai Chúa Giêsu đưa Chúa Giêsu đến nhà người bà con là Elisabeth, vợ của ông Dacaria,
đang mang thai ông Gioan là vị tiền hô (x. Lc 1).
3. Đức bác ái
được sáng tỏ
Ai biết được sứ vụ là gì thì cũng biết được đức ái là gì. Bởi vì từ khi
các môn đệ của Chúa Kitô đón nhận Chúa Thánh Thần từ ngày lễ Ngũ Tuần, dấu
chứng này hiển hiện rõ ràng trước mắt các môn đệ, luôn hi vọng lưu lại lâu hơn
trong trái tim của các môn đệ!
3.1. “Đức mến
thì nhẫn nhục”
Vào năm 1971, Cha Eyquem đã định rõ với những lời mở đầu khi kỷ niệm Chị
Pauline Jaricot 150 tuổi:
“Vì thế, cần phải ra khỏi nhà thờ mà không cần lưỡng lự gì hết, và ra
khỏi môi trường thực hành để tiến vào trong hoang địa này là nơi số người đã
chịu phép rửa tội đã hoàn toàn đánh mất một ít điều họ có. Cũng cần phải chấp
nhận là không đòi hỏi gì ở đám đông dân chúng này cái điều mà họ không thể mang
nổi: không thực hành bí tích, không cam kết tham gia vào bất cứ hình thức sinh
hoạt nào.
Không nên cho rằng một cuộc sống Kitô giáo đã được phát triển có thể
vượt qua các bí tích hoặc vượt qua sự cam kết tham gia vào đời sống của Giáo
Hội, nhưng điều đó phải khởi đi từ cuộc sống, từ một sức khoẻ đã được tìm thấy.
Không có ích gì khi kéo lúa mì vào đám cỏ để cho nó tăng trưởng nhanh hơn. Có
những sự bất kiên nhẫn làm chết người đối với sự phát triển đời sống!”
Vì thế, hãy kiên nhẫn! Đó mới là khôn ngoan...
3.2. Trình độ
giáo lý thông thường, thiếu đam mê và thiếu hy vọng
Sự kiên nhẫn của đức mến cũng liên quan đến một thực tại sâu xa. Chúng
ta lại tìm thấy điều đó trong những giá trị sư phạm của Phong trào (Le Rosaire
dans la pastorale, 1-1971, p. 12).
a. “Các Nhóm Mân Côi giúp đỡ người giáo dân và đặc biệt là những vị đặc
trách nhận thức về trình độ giáo lý của phần lớn người Kitô hữu (tức là trình
độ khai tâm, và trình độ cao hơn). Nhiều người nói rằng: “Tôi tin, nhưng tôi
không sống”. Những người khác thì lại sống đạo, nhưng người ta khám phá ra một
cách ngạc nhiên đau đớn là họ hiểu biết nông cạn về đức tin của mình.
Chấp nhận điều này, hiểu điều này và chịu đựng điều này, chính là mang
lại cho những người đặc trách niềm ước mong và những phương tiện giúp họ hiểu
sâu hơn đức tin của họ, và là giúp người khác cũng làm như vậy. Lần lượt như
thế, và trong khuôn khổ của một nhóm giúp làm điều đó, ‘người kitô hữu trung
gian sẽ tìm lại những nguồn lực đức tin nơi Chúa Giêsu Kitô và trong Giáo Hội’.
b. “Đối với những người không thực hành Đạo, những vị đặc trách sẽ dần
dần hiểu ra rằng không đề cập đến việc “cải hoá” những con người này, không đề
cập đến việc “dẫn người ta tham gia nhóm”. Sự hiện diện của họ giữa các cộng
đoàn cầu nguyện của chúng ta giả thuyết là phải có nhiều kiên nhẫn, đặc biệt là
phải thật tế nhị khéo léo và phải có yêu thương. Phải có thời gian, cũng phải
chấp nhận những thất bại mà không bao giờ được phép chán nản, buông xuôi.
Những vị hữu trách nhanh chóng hiểu ra rằng không chỉ có những người bất
lực về vật chất, mà đặc biệt là nhiều trái tim thiếu vắng niềm hi vọng, tình
bằng hữu, những khả năng đối thoại huynh đệ”.
Những lời này cũng không hoàn toàn đúng đối với ngày hôm nay sao?
4. Để có một câu
trả lời thoả đáng
4.1. Trả lời
thẳng thắn
Mối phúc thật của những người nghèo được lưu tâm đến. Mối phúc đó bắt
đầu tạo nên một suy tư cho một câu trả lời thích hợp. Tiếng vang thì rõ ràng:
nói về một cái gì đó bền vững. Toàn bộ cơ cấu tổ chức mà Cha (Eyquem) quan niệm
sẽ xét đến mục đích này. Và những cách trình bày dưới đây có thể cũng được ghi
dấu ấn của tu sĩ P. Jaques Loew, người cùng ở nhà tập với cha, rằng cha đã được
hứng khởi trong sâu thẳm trái tim mình để nối kết vì sứ vụ.
4.2. Một “cơn
sốt thánh thiện” đã có từ năm 1945
“Cơn sốt thánh thiện” của cha đã xuất hiện vào năm 1945 chỉ một năm sau
khi cha lãnh tác vụ linh mục:
“Sứ vụ của chúng ta được sai đến với những ai thường xuyên nhất? Hãy nói
đi, hỡi những người Pháp. Chính ở nơi công cộng mà chúng ta gặp nhau trong các
nhà thờ. Trong các nguyện đường, chúng ta gặp thấy ai? Những người nam và những
người nữ đã có gia đình, thanh niên nam nữ ở đâu rồi? Chúng ta đừng nói với
những người nam hoặc nữ đang còn ở nhà để không làm cho ai bị ép buộc. Người ta
chấp nhận rằng cử toạ, mà người ta có thói quen nói chuyện với, cử toạ đó mang
lại một ít nhu cầu.
Một lời khuyên thường được đưa ra cho những nhà giảng thuyết trẻ là như
thế này: “đặc biệt là các bạn hãy thích nghi đi”. Nhưng thích nghi với cái gì
đây? Bất kỳ nơi nào người ta đến thì người ta đều có cảm tưởng là gặp những
người đã quen quá rồi! Cùng những cô gái đó, cùng những bà già đó. Trẻ em thì ở
ngoài cuộc rồi. Họ không nghe... thậm chí cũng không thèm nghe cha xứ, người
làm cho họ câm lặng! Vấn đề đặt ra cho nhà giảng thuyết không phải là biết có
hỗ trợ cho các nhu cầu của thính giả hay không, nhưng là phải biết thính giả
của mình có cần gì hay không”.
Đó chính là một sự thẳng thắn không dứt khoát!
5. Công bố Tin
Mừng đòi hỏi phải có tổ chức
5.1. Lưu tâm đến
người nghèo, tổ chức Kinh Mân Côi, việc thành lập một cộng đoàn
Trong hội nghị diễn ra ngày 26-4-1960, cha lập lại mối lưu tâm đến người
nghèo trong mối liên hệ với Kinh Mân Côi, ngay cả khi các Nhóm Mân Côi đang đi
những bước chân chập chững đầu tiên và trong bối cảnh này, tất cả mọi hình ảnh
đều bao gồm:
“Nhưng người ta sẽ nói, nếu anh cũng đi đến với người thấp cổ bé miệng,
thì những người khác anh để rơi họ ư?”
Còn xa điều đó lắm! Hơn bao giờ hết, họ trở thành những người cần thiết!
Bởi vì, để làm cho bột dậy men, thì phải có men! Nếu đúng như thế, người dửng
dưng và người thờ ơ mà người ta muốn tiếp cận, thì bổn phận tiếp cận những
người này thuộc về những người nhiệt tình và đạo đức, và cần phải mời gọi những
người đạo đức này dấn bước vào, cụ thể phải tiếp cận cho bằng được! Người thờ
ơ, người hờ hững không hề đến nhà thờ. Người như thế sẽ không tới dự các buổi
kinh chiều trong mọi trường hợp, hoặc tới vào giờ kinh chiều để nghe vị điều
hành Kinh Mân Côi giảng giải cao siêu. Và buổi sáng, khi tham dự thánh lễ, điều
gì người ta nghe ở tai này thì lại ra ở tai kia. Trừ trường hợp nếu nói về
những người thực sự sốt sắng nhất, là người có men! Nhưng cũng cần tạo nên một
môi trường thuận tiện.
Và tôi thấy hình như người ta thường không nhận thức đủ điều đó. Người
ta tin với thiện chí rằng chỉ cần ít thôi, luôn luôn ít, và ít nhất lại càng
tốt để có cơ hội được đi theo, thế là đủ rồi. Theo thiển ý của tôi, đó là một
sự sai lầm trầm trọng. Cần phải đặt người yếu thế trong tương quan với người
mạnh thế! Cần tạo nên một môi trường sống mà ở đó sự ảnh hưởng cá nhân của một
số người có thể tác động lên những người khác! Và vì đề cập đến việc cầu
nguyện, nên cần phải thành lập những cộng đoàn cầu nguyện. Chị Pauline Jaricot
hoàn toàn đã hiểu điều đó.
5.2. Một cách
thế cùng hiện diện
Khi gói gọi lời tựa của mình bằng một công thức đơn giản, Cha Eyquem
cũng có thể nhấn mạnh lên một điểm quan trọng: “Chị Pauline không chỉ sáng lập
nên việc suy niệm Kinh Mân Côi mỗi ngày một chục kinh, mà còn sáng lập ra Nhóm
Mười Lăm Người. Chị đã sáng lập ra một tổ chức, một hiệp hội, một cách thế mới
để cùng hiện diện. Thử tưởng tượng là người ta có thể vượt qua một tổ chức,
theo ý kiến tôi thì đó là một sự sai lầm cơ bản, mà ngay từ đầu, có nguy cơ đưa
đến thất bại với nỗ lực để đạt đến số đông”.
Tuy nhiên, tổ chức này đã được công nhận cho thực hành; tổ chức này
không chỉ đã đưa ra một cơ cấu chắc chắn mà còn một cách trình bày ở cấp độ của
tế bào đầu tiên, Nhóm Mân Côi. Nhóm này cũng là một sự hiệp thông thiêng liêng
của Kitô giáo. Chính các thành viên trong nhóm này họp mặt với nhau hằng tháng
tại tư gia; đó là một thực thể có cơ cấu hữu hình. Nhóm họp mặt nhau hoàn toàn
vì tính cách thiêng liêng, mỗi ngày với lời cầu nguyện bằng một chục Kinh Mân
Côi: mỗi một thành viên của nhóm suy niệm mầu nhiệm vui, trong khi đó người
khác lại dành để suy niệm mầu nhiệm thương, người khác nữa suy niệm mầu nhiệm
mừng, và cứ thế...
Việc tổ chức, một cách thế mới để cùng hiện diện, đã có khuôn mặt này!
nó đi đến thực tại cụ thể này, và nó đứng vững được là nhờ ơn Chúa dưới sự che
chở của Đức Mẹ.
Còn tiếp...
F.X. Trần Kim Ngọc, OP, chuyển ngữ