I.
Một số nét tổng quan
A.
Khái niệm Tây Nguyên
Theo
địa lý hành chính hiện nay, Tây Nguyên gồm có năm tỉnh, kể từ bắc vào nam:
Kontum, Gia Lai, Đắc Lắc, Đắc Nông, Lâm Đồng. Tuy nhiên, cần chú ý các tỉnh ven
biển miền Trung và một số tỉnh miền Đông Nam Bộ đều có một vùng rừng núi khá
rộng, cũng là nơi sinh sống của các dân tộc thiểu số. Chẳng hạn tỉnh Quảng Nam,
là tỉnh duyên hải, lại có đến 56 % diện tích là vùng núi và vùng dân tộc, tại
đấy có dân tộc Cơ-tu là một dân tộc quan trọng ở khu vực nam Trường Sơn. Miền
tây tỉnh Quảng Ngãi cũng có vùng núi và là vùng dân tộc tương tự, thì có dân
tộc Hre cũng là một dân tộc quan trọng. Dân tộc Rakglei thì sống chủ yếu ở miền
tây các tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận và Bình Thuận. Một số tỉnh miền Đông Nam Bộ
cũng có vùng núi và là vùng dân tộc khá rộng. Vùng Cát Tiên, nơi có di tích nổi
tiếng của dân tộc Mạ, nằm phần lớn trên địa bàn tỉnh Bình Phước. Sóc Bombo mà
chúng ta đều biết qua bài hát quen thuộc cũng thuộc Bình Phước… Như vậy khái
niệm Tây Nguyên xét về các về mặt dân tộc, văn hoá, xã hội, có thể cả lịch sử
và địa lý, thật ra rộng hơn vùng được quy định theo địa lý hành chính. Có người
đã dùng khái niệm Nam Trường Sơn để chỉ vùng này, có thể đúng hơn.
B.
Đặc điểm địa lý
Trong
tác phẩm Rú Mọi (Les jungles Mois – NXB Tri Thức dịch với tên là Rừng người
Thượng), cho đến nay vẫn được coi là công trình khảo sát cơ bản nhất về Tây
Nguyên, tác giả Henri Maitre cho rằng Tây Nguyên không phải là một dãy núi –
như vẫn được gọi trước nay (Trường Sơn, Chaîne annamitique) – mà là một bình
nguyên nằm trên cao. Trong một kỷ địa chất xa xôi nào đó, vùng đất này do chấn
động của vỏ trái đất đã được nâng cao lên đột ngột so với chung quanh, tạo
thành một cao nguyên lớn.
Về
địa hình, Tây Nguyên có hai đặc điểm đáng chú ý:
Cao
vút ở hai đầu, cực bắc là cụm núi Atouat, với đỉnh Ngok Linh 2598 mét, cao nhất
toàn Tây Nguyên và toàn miền Nam; cực nam là dãy Chư Yang Sin, 2402 mét (là
đỉnh cao nguyên Lang Biang). Giữa hai cụm núi ấy là một bình nguyên mênh mông,
bằng phẳng, chỉ có những nếp lượn sóng liên tục. Đứng tại thành phố Buôn Ma
Thuột chẳng hạn nhìn quanh, thấy cụm núi quan trọng nhất của tỉnh Đắc Lắc là
núi Đ’leya, cũng xa tương tự như từ Hà Nội nhìn lên Ba Vì hay Tam Đảo…
Đặc
điểm địa hình thứ hai rất quan trọng của Tây Nguyên là dốc đứng trên sườn phía
đông, đổ xuống các tỉnh duyên hải nam Trung Bộ, tạo thành một bức trường thành
sừng sững. Chính điều này khiến người Việt ở các tỉnh ven biển nam Trung Bộ
nhìn ngược lên hướng tây đã nhầm Tây Nguyên là một dãy núi dài. Từ đồng bằng
duyên hải nam Trung Bộ đi lên Tây Nguyên chỉ có một số đường độc đạo, ngày
trước là các đường 19 từ Quy Nhơn, qua đèo An Khê và đèo Mang Giang lên Pleiku,
rồi có thể đi tiếp qua Stung Treng của Cămpuchia; đường 26, từ Nha Trang – Ninh
Hoà qua đèo Phượng Hoàng lên Buôn Ma Thuột; đường 28 từ Phan Rang qua đèo Ngoạn
Mục lên Đà Lạt. Gần đây đã sửa chữa, nâng cấp và mở thêm một số đường khác, như
các đường 14 từ Đà Nẵng và Quảng Nam lên Kontum, đường 24 từ Quảng Ngãi lên
Kontum, đường 25 từ Tuy Hoà, Phú Yên lên Pleiku… Đáng chú ý, chẳng hạn nếu theo
đường 19 Quy Nhơn – Pleiku thì sau khi lên khỏi đèo An Khê rất cao, ta lại tiếp
tục đi bằng chứ không hề xuống dốc, sau đó cách khoảng vài chục km sẽ gặp đèo
Mang Giang cũng rất cao và hiểm trở, vượt qua rồi lại tiếp tục đi bằng, đến
Pleiku, sau đó sẽ xuôi dần thoai thoải về hướng tây đến bờ sông Mékông. Tức
trong khi sườn phía đông dốc đứng, thì sườn phía tây của Tây Nguyên khá bằng
phẳng, thoải thoải đổ về Mékông. Đặc điểm địa hình này sẽ rất quan trọng trong
quan hệ của Tây Nguyên với các “lân bang” trong lịch sử lâu dài: quan hệ về
phía tây, với Cămpuchia và với Lào, thuận tiện hơn là với Champa (và sau đó với
Đại Việt) ở phía đông. Các bộ lạc ở Tây Nguyên quan hệ với “lân bang” trên vùng
duyên hải phía đông chủ yếu do nhu cầu tìm muối mà Tây Nguyên hoàn toàn không
có. Ở Tây Nguyên có hai địa danh đáng chú ý: Trong tiếng Ê Đê, buôn có nghĩa là
làng (Buôn Hồ, Buôn Sam, Buôn Ma Thuột…), nhưng lại có Bản Đôn ở Đắc Lắc, phía
tây Buôn Ma Thuột, sâu về phía nam Tây Nguyên, gần biên giới Cămphuchia. Bản là
tiếng Lào, có nghĩa là làng. Bản Đôn chính là một trạm buôn của người Lào cắm
sâu vào đây từ rất xưa, đến nay kiến trúc nhà cửa trong làng vẫn còn nhiều dấu
vết Lào, người dân vẫn hiểu thông thạo tiếng Lào. Đây cũng chính là vùng dân
tộc Mơ Nông, rất giỏi nghề săn bắt và thuần dưỡng voi. Rất có thể chính người
Lào đã truyền nghề này cho người Mơ Nông… Trong cụm núi Ngok Linh lại làng
Mường Hon. Mường chắc chắn là tiếng Lào, cũng có nghĩa là làng. Đây có thể là
một làng người Lào vào định cư đã lâu đời trong cụm núi lớn này, cũng có thể là
vết tích của những người Lào chạy dạt vào đây do hệ quả của các cuộc chiến
tranh bộ lạc ngày xưa… Rõ ràng quan hệ của người Lào với các dân tộc Tây Nguyên
từ xa xưa đã khá sâu.
Tây
Nguyên vốn là một vùng đất núi lửa, hiện nay còn rất nhiều dấu vết núi lửa.
Biển Hồ khá rộng ở phía bắc thị xã Pleiku chính là một miệng núi lửa cổ. Núi
Hàm Rồng ở nam thị xã Pleiku còn rất rõ dấu vết miệng núi lửa. Ở Đắc Lắc có
huyện Chư Mơgar, có nghĩa là “Núi Ngược”, vì miệng núi lửa cổ lõm xuống trên
đỉnh khiến ngọn núi này trông như có đỉnh lộn ngược… Chính nham thạch núi lửa
đã khiến Tây Nguyên trở thành một vùng đất bazan lớn nhất nước, chiếm đến 60%
kho đất bazan của cả nước. Đất bazan đặc biệt thích hợp với một số cây công
nghiệp như cà phê, cao su…
Tây
Nguyên cũng là vùng có hệ động vật và thực vật phong phú nhất nước.
Về
khí hậu, Tây Nguyên có hai mùa rõ rệt, mùa khô từ tháng 11 đến giữa tháng 5, và
mùa mưa từ cuối tháng 5 đến tháng 10. Đất bazan là loại đất không giữ nước,
nước mưa trượt đi trên bề mặt, về mùa khô Tây Nguyên gần như hoàn toàn không có
nước.
C.
Sơ lược lịch sử
1-
Tiền sử: Năm 1948, nhà dân tộc học người Pháp Goerges Condominas tìm được bộ
đàn đá tiền sử ở làng Nđut Liêng Krak thuộc huyện Krông Nô tỉnh Đắc Lắc. Đây là
bộ đàn đá đầu tiên tìm được trên thế giới. Về sau nhiều bộ đàn đá khác còn được
tìm thấy ở nhiều nơi thuộc Tây Nguyên và ven Tây Nguyên. Đáng chú ý hệ thang âm
của các đàn đá này trùng hợp với thang âm các bộ chiêng của các dân tộc Tây
Nguyên hiện nay (thang ngũ âm, nhưng khác với thang ngũ âm Trung Hoa, mà lại
gần thang âm tìm thấy ở một số nhạc cụ trên các đảo nam Thái Bình Dương và Ấn
Độ Dương). Tức có thể có một mối quan hệ nào đó còn chưa giải thích được giữa
chủ nhân các bộ đàn đá tiền sử ấy (được xác định niên đại là cách đây 3000 năm)
với các dân tộc đang sinh sống ở Tây Nguyên hiện nay, và cũng có thể có một
dòng chảy của con người từ những vùng xa xôi từ phía nam đến Tây Nguyên trong
những thời kỳ rất xa xưa.
Cách
đây vài chục năm, trong khi chuẩn bị làm Thuỷ điện Ya Ly (trên vùng giáp giới
hai tỉnh Kontum và Gia Lai), đã tiến hành khai quật di chỉ Lung Leng, nơi sẽ là
lòng hồ. Đã phát hiện được tại đây dấu vết hết sức quan trọng của một nền văn
hoá cổ, từ thời Đồ Đá Cũ, Đồ Đá Mới sang đến Đồ Đồng… Từ sau đó, công tác khảo
cổ ở Tây Nguyên được chú ý hơn, đã liên tục phát hiện nhiều khu di tích quan
trọng khác, ở hầu khắp Tây Nguyên. Đã tìm được cả trống đồng ở nhiều nơi. Công
tác khảo cổ ở Tây Nguyên nói chung chỉ mới bắt đầu, chưa đủ cơ sở cho những kết
luận thật đáng tin cậy. Song bước đầu đã có thể thấy một số điểm đáng chú ý:
các di vật đồ đá và đồ đồng tìm thấy ở Tây Nguyên rất gần với Đông Sơn, trong
khi đồ gốm lại gần với văn hoá Sa Huỳnh. Như vậy ít ra có thể thấy nền văn hoá
tiền sử ở Tây Nguyên từng có giao lưu rộng rãi với cả hai nền văn hoá lớn này ở
phía bắc và phía nam…
Công
cuộc khảo cổ ở Tây Nguyên chắc chắn còn hứa hẹn nhiều khám phá mới quan trọng.
2-
Tây Nguyên trước thời Nam tiến của người Việt. Quan hệ của các dân tộc Tây
Nguyên với Cămpuchia, Lào, Champa (và sau đó với Đại Việt)
Trước
khi có cuộc Nam tiến của người Việt, vương quốc Champa xem Tây Nguyên nửa như
một nước chư hầu nửa như vùng đất phía tây của mình. Trong thực tế triều đình
Champa không hề kiểm soát được Tây Nguyên. Suốt một thời kỳ lịch sử rất lâu
dài, Tây Nguyên là vùng sinh sống của các bộ lạc độc lập và tự trị. Trong đó
đông nhất, mạnh nhất, chặt chẽ nhất là người Gia Rai, sống ở vùng trung Tây
Nguyên. Trong người Gia Rai có các nhân vật rất đặc biệt gọi là P’tao Pui,
P’tao Ia và P’tao Nhinh, mà người Việt dịch là “Vua Lửa”, “Vua Nước”, “Vua
Gió”, người Pháp cũng dịch là “Roi du Feu”, “Roi de l’Eau”, “Roi du Vent”. Cách
dịch “Vua”, “Roi” là không chính xác. Thật ra đây là một kiểu thủ lĩnh tinh
thần và tâm linh rất độc đáo trong xã hội Gia Rai, một kiểu “thầy cúng” có uy
tín lớn, đóng vai trò là người giữ mối quan hệ giữa Thần linh và con người,
giữa thế giới “bên trên” và xã hội trần thế, không có bất cứ quyền hành thế tục
và quyền lợi ưu tiên nào, nhưng lại là một thứ trung tâm cố kết và “điều hành”
toàn bộ xã hội này một cách hết sức chặt chẽ và hiệu lực, kể cả trong quan hệ
đối ngoại với các “lân bang”. Trong tác phẩm nghiên cứu rất công phu và đặc sắc
“P’tao, một lý thuyết về quyền lực ở người Gia Rai Đông Dương” (P’tao, une
théorie du pouvoir chez les indochinois Jarai), nhà Tây Nguyên học hàng đầu
Jacques Dournes đã có sự phân tích và giải thích rất sâu sắc về các nhân vật
này và một kiểu quyền lực cũng hết sức độc đáo ở xã hội Gia Rai nói riêng và xã
hội Tây Nguyên nói chung, còn tồn tại cho đến rất gần đây, thậm chí còn ảnh
hưởng tiềm tàng đến tận ngày nay.
Các
P’tao là người Gia Rai, sống ở vùng Gia Rai, nhưng tầm ảnh hưởng lan rất rộng,
sâu trên nhiều vùng dân tộc khác, thậm chí sang cả Cămpuchia. Trong nhiều thời
kỳ, triều đình Cămpuchia từng coi các P’tao ở Tây Nguyên như một kiểu “vua
thần”, định kỳ có dâng cống vật. Người Cămpuchia gọi các P’tao là Sadet (gần
với từ Samdeth). Về sau, các “Vua Nước” và “Vua Gió” giảm dần ảnh hưởng rồi mất
hẳn, chỉ còn “Vua Lửa”… Chúng tôi nghĩ việc nghiên cứu hình thái tổ chức xã hội
với các P’tao của người Gia Rai có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tìm hiểu
sâu sắc Tây Nguyên, con người, văn hoá, tổ chức xã hội cổ truyền… ở vùng đất
đặc biệt này. Thậm chí cũng còn có thể cho phép chúng ta hình dung chừng nào về
các xã hội cổ từng tồn tại trên vùng đất nay là bán đảo Đông Dương.
Tây
Nguyên quan hệ với các “lân bang” chính là qua các P’tao. Quan hệ nhiều nhất là
với Campuchia. Trong nhiều thời kỳ dài đã thường xuyên có các đoàn “sứ giả” đi
lại hằng năm giữa các P’tao và triều đình Cămpuchia, trao đổi cống vật giữa hai
bên. Trong quan hệ này đáng chú ý là về phía Campuchia đối với các P’tao Tây
Nguyên là có tính chất “dâng lên”, còn từ phía các P’tao với các vua Cămpuchia
là “ban xuống”. Do địa hình và cả chủng tộc, người Lào đã có quan hệ lâu đời và
sâu với các dân tộc ở Tây Nguyên. Quan hệ của Tây Nguyên với Champa lại có
những nét riêng khác: Trong thực tế, triều đình Champa đối xử với Tây Nguyên
như với một “lân bang” phía tây của mình, cũng có quan hệ trao đổi cống vật
định kỳ (với các P’tao) nhưng không chặt chẽ bằng phía Campuchia. Mặt khác,
người Gia Rai, dân tộc lớn nhất và quan trọng nhất ở Tây Nguyên với người Chàm
đều cùng thuộc một ngữ hệ Malayo-Polynésien nên rất gần gũi nhau, thậm chí có
tác giả còn cho rằng người Gia Rai chính là người Chàm dạt lên Tây Nguyên trong
những điều kiện và những thời gian lịch sử nào đó. Hiện còn có một số dấu vết
các tháp Chàm ở vùng Gia Rai…
Trong
quá trình Nam tiến, người Việt đã mất trên ba trăm năm mới giải quyết xong vùng
đồng bằng ven biển Champa, sau đó đi tiếp về nam, đứng chân được trên vùng đất
Thủy Chân Lạp vừa xong thì cũng là lúc người Pháp tràn vào. Do vậy triều đình
Việt chưa có thời gian quan tâm nhiều đến vùng đất cao phía tây và các bộ lạc
sống trên đó. Triều đình Huế cũng có phái một số quan chức lên tìm hiểu và bắt
quan hệ với các bộ lạc Tây Nguyên, tất nhiên với ý đồ chinh phục. Tuy nhiên,
công cuộc này cũng còn rất sơ sài, các phái viên triều đình có gặp Vua Nước,
Vua Lửa, mà họ gọi là Thủy Xá, Hỏa Xá, đặt quan hệ “triều cống” định kỳ của các
vị này với triều đình và “ban tước” của triều đình cho các vị này, và vì hiểu
rằng đây quả thực là các “Vua” nên họ yên trí như vậy là đã nắm được toàn bộ
Tây Nguyên. Có hiện tượng đáng chú ý: triều Nguyễn đã từng thiết lập một hệ
thống “đồn sơn phòng” suốt dọc các tỉnh trung Trung bộ trên ranh giới giữa vùng
người Việt và vùng sinh sống của các dân tộc thiểu số ở phía tây, riêng ở Quảng
Ngãi còn lập cả một bờ lũy dài hơn trăm km ngăn cách giữa hai vùng, chứng tỏ
triều đình coi phía bên kia là một “nước” khác, có thể là một thứ “man” chư
hầu…
3- Người Pháp với Tây Nguyên
Quá
trình xâm nhập của người Pháp vào Tây Nguyên khá lâu dài và sâu.
Đầu
tiên là các nhà truyền giáo. Do chính sách “sát tả”, bài trừ Cơ đốc giáo của
các vua đầu triều Nguyễn, các nhà truyền giáo Cơ đốc đã tìm đường lánh lên vùng
rừng núi Tây Nguyên có thể an toàn hơn. Họ đã đi bằng nhiều đường khác nhau,
sau nhiều lần thất bại cuối cùng đã lên được đến vùng người Ba Na ở Kontum và
thiết lập được xứ đạo đầu tiên trên cao nguyên tại đây. Tại Đại Chủng viện ở
thị xã Komtum hiện nay có một bảo tàng (được gọi là “Phòng truyền thống”) minh
họa khá sinh động và chính xác con đường truyền đạo Cơ đốc lên Tây Nguyên.
Nhiều nhà truyền giáo cũng là những nhà dân tộc học tận tụy và uyên bác. Chính
họ đã để lại những công trình nghiên cứu đa dạng và sâu sắc về Tây Nguyên.
Đồng
thời và tiếp sau các nhà truyền giáo là các “phái bộ” (mission) khảo sát, vừa
là những người tiên phong đi chuẩn bị và dọn đường cho việc chinh phục, đồng
thời cũng là những nhà khoa học được đào tạo rất cơ bản, ít nhất ở hai trường
Dân tộc học và Trường Pháp quốc hải ngoại (École française d’Outre-mer), một số
người là sĩ quan quân đội. Nhiều phái bộ như vậy đã đi hầu khắp Tây Nguyên,
không bỏ sót một vùng nào, nghiên cứu hoặc một cách tổng thể về vùng đất và
người này, hoặc về từng phương diện, từng tộc người, từng vùng riêng biệt. Một
trong những phái bộ đó, do Henri Maitre dẫn đầu, đã để lại một tác phẩm đồ sộ
đến nay vẫn là công trình khảo sát cơ bản, toàn diện và tỉ mỉ nhất về Tây
Nguyên, chưa ai vượt qua được. Công trình này có tên là Les jungles Mois (Rú
Mọi), gồm hai phần, phần đầu là Nhật ký hành trình của phái bộ xuyên suốt Tây
Nguyên, phần hai trên cơ sở tổng kết toàn bộ các khảo sát, dựng nên bức tranh
toàn diện về Tây Nguyên. Viện Viễn Đông Bác cổ Pháp tại Hà Nội đã tổ chức dịch
phần hai công trình này, dưới cái tên Rừng người Thượng, đang được in ở nhà
xuất bản Tri Thức.
Tiếp
sau các phái bộ khảo sát là các nhà cai trị, cũng được đào tạo rất cơ bản về
nhân chủng học, dân tộc học trước khi sang Việt Nam. Rất nhiều người trong số
này, như Sabatier, công sứ Pháp đầu tiên ở Đắc Lắc, là nhà khoa học uyên bác.
Ông là người đầu tiên sưu tầm và dịch ra tiếng Pháp trường ca Đam San, cũng đã
sưu tầm và hệ thống hoá toàn bộ luật tục Ê Đê. Ông từng cai trị tỉnh Đắc Lắc
bằng một kiểu “Toà án Luật tục”, kết hợp khôn khéo luật tục của người Ê Đê với
luật chung cho toàn Đông Dương. Bên cạnh những viên quan cai trị này, còn có
những nhà chuyên môn giỏi và tâm huyết trong nhiều lĩnh vực, như Antomarchi,
một nhà ngôn ngữ học lão luyện, người đã đặt ra vần chữ cái La tinh đầu tiên
cho tiếng Ê Đê. Thậm chí còn có những bác sĩ như Jouin, vừa là một thầy thuốc
nổi tiếng, vừa là một nhà dân tộc học sâu sắc…
Sau
cùng đến lượt các nhà khoa học chuyên nghiệp, như G. Condominas, A. de
Hautecloque-Howe, Boulbet, Maurice…, thường đi sâu và ở lại lâu dài trong các
vùng thực địa, để lại những công trình quan trọng hoặc về từng dân tộc hoặc về
từng vấn đề dân tộc học lớn ở Tây Nguyên. Có người như Jacques Dournes, là một
linh mục đến Tây Nguyên, ở lại suốt 25 năm, cuối cùng bỏ đạo, sống theo phong
tục Tây Nguyên, là một nhà Tây Nguyên học lớn…
Công
cuộc chinh phục Tây Nguyên của người Pháp diễn ra song song với cuộc xâm chiếm
Việt Nam và toàn Đông Dương. Ở Tây Nguyên họ cũng gặp phải sự kháng cự của các
bộ lạc bản địa. Trước đây, giữa các bộ lạc ở đây vẫn thường diễn ra chiến
tranh, chủ yếu để cướp tù binh bán sang các nước chung quanh làm nô lệ. Vốn là
những dân tộc quen sống tự do, phóng khoáng, có ý thức tự trọng và tinh thần
thượng võ cao, không chịu bất cứ sự áp bức, áp đặt nào, họ đã đứng lên chống
lại những người mới đến mang tới một ách thống trị xa lạ. Tuy nhiên những cuộc
kháng cự thường rời rạc, một vài phong trào liên kết được một số vùng tương đối
rộng không tồn tại được lâu. Song cũng có những vùng cuộc đấu tranh diễn ra khá
dai dẳng, thậm chí có nơi suốt gần trăm năm đô hộ người Pháp vẫn không hoàn
toàn thiết lập được bộ máy cai trị.
Khi
đã chiếm được toàn bộ Đông Dương, người Pháp đã chia bán đảo này ra thành năm
xứ Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ, Ai Lao và Cao miên. Vậy nên phân Tây Nguyên về
đâu? Họ có cái mà Jacques Dournes, trong tác phẩm P’tao… của ông, gọi là “logique
du découpage” (lô gích của sự phân cắt), tất nhiên là logic phân cắt sao cho
thuận tiện hơn cả đối với sự cai trị của chính quyền thực dân. Thấy trong các
“lân bang” trước nay, người Lào đã xâm nhập vào Tây Nguyên sâu hơn cả, về mặt
chủng tộc cũng tương đối gần gũi, nên họ cắt Tây Nguyên về Lào. Một thời gian
sau, nhận thấy thủ đô Lào đặt ở Viêng Chăn quá xa, khó với tới Tây Nguyên, đến
năm 1904, Toàn quyền Đông Dương đã ký nghị định giao Tây Nguyên về cho triều
đình Huế. Như vậy về mặt pháp lý (của chính quyền thực dân), từ năm 1904, Tây
Nguyên mới chính thức thuộc về Trung Kỳ, và từ đó thuộc về Việt Nam.
Chủ
trương của người Pháp đối với Tây Nguyên trước sau không hoàn toàn thống nhất.
Viên công sứ Pháp đầu tiên cai trị Tây Nguyên là Sabatier (lúc bấy giờ toàn bộ
Tây Nguyên được coi là một tỉnh gọi là tỉnh Kontum, thủ phủ đặt ở Buôn Ma
Thuột) chủ trương “bảo tồn” nguyên vẹn Tây Nguyên, ngăn không cho người Việt,
người Hoa, và cả người Pháp lên sinh sống và khai thác Tây Nguyên. Ông muốn giữ
không chỉ đất đai, mà cả con người, văn hoá, xã hội Tây Nguyên mà ông khá am
hiểu trong trạng thái đúng như khi nó được “tìm thấy”, không để cho vùng đất,
người, văn hoá và xã hội cổ truyền tốt đẹp này bị tổn thương vì sự xâm nhập của
các thế lực ngoại lai. Ông kiên trì thu phục được các tù trưởng bản địa (Ama
Thuột chính là một tù trưởng có ảnh hưởng lớn trong vùng Ê Đê, đã quy thuận,
hợp tác với Sabatier, và làng của ông, Buôn Ma Thuột [có thể dịch sát nghĩa:
Làng của Cha thằng Thuột], trở thành thủ phủ của toàn vùng. Sabatier tự biến
mình thành một tù trưởng đứng đầu toàn xứ, tổ chức nhiều cuộc ăn thề kết nghĩa
trung thành với các tù trưởng lớn trong vùng, thiết lập một bộ máy và một
phương thức cai trị dựa trên luật tục của các dân tộc bản địa…
Chính
sách “đóng cửa Tây Nguyên” của Sabatier vấp phải sự chống đối của các thế lực
thực dân muốn đổ xô vào khai thác vùng đất màu mở này. Cuối cùng, do áp lực gay
gắt của họ, Sabatier bị lật đổ, ông đã thất bại trong ý đồ có thể tốt đẹp nhưng
ảo tưởng của ông… Từ đó các nhà thực dân Pháp mới bắt đầu khai thác Tây Nguyên,
chủ yếu là lập các đồn điền cà phê, cao su, chè do người Pháp làm chủ, sử dụng
một số công nhân người Việt được đưa lên đây, và dần dần có thêm ít nhiều công
nhân người Tây Nguyên…
Chính
trong thời gian cai trị của người Pháp, đã đào tạo được một số trí thức trong
các dân tộc bản địa Tây Nguyên, chủ yếu trong hai ngành y tế và giáo dục. Hầu
như tất cả các trí thức này về sau đều trở thành cán bộ nòng cốt của cách mạng
ở Tây Nguyên…
Chỉ
hơn một tháng sau Cách mạng Tháng Tám, quân Pháp đã trở lại đánh chiếm Nam Bộ,
tiếp liền sau đó là Tây Nguyên. Đáng chú ý là suốt 9 năm chiến tranh Pháp không
chiếm được vùng duyên hải Nam Trung Bộ từ nửa tỉnh Quảng Nam vào đến Phú Yên,
nhưng họ lại tập trung sức quyết chiếm Tây Nguyên. Ấy là vì vị trí chiến lược
hết sức quan trọng của Tây Nguyên, về mặt quân sự “ai làm chủ được Tây Nguyên
thì sẽ làm chủ cả miền nam Đông Dương”. Cuộc kháng chiến 9 năm ở vùng Nam Trung
Bộ (lúc bấy giờ gọi là Liên khu 5) chính là cuộc giành giật quyết liệt giữa ta
và địch vùng cao nguyên chiến lược này. Chính qua cuộc chiến đấu chống kẻ thù
chung này mà các dân tộc Tây Nguyên đã trở nên gần gũi và gắn bó ngày càng sâu
sắc với cách mạng, với cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trở thành một bộ phận
khắng khít không thể tách rời của cộng đồng rộng lớn đó. Từ những cơ sở chính
trị đầu tiên được kiên trì xây dựng, tiến lên thành những cơ sở du kích vũ
trang, các làng chiến đấu kiên cường, đến cuối những năm kháng chiến chống Pháp
Tây Nguyên đã có thể trở thành địa bàn thuận lợi cho các đơn vị chủ lực mở
những chiến dịch ngày càng lớn, cho đến chiến dịch Đông - Xuân 1953-54, phối
hợp với Điện Biên Phủ, giải phóng hoàn toàn tỉnh Kontum và toàn bộ vùng Bắc Tây
Nguyên…
Từ
sau năm 1954 đến năm 1959-60, Tây Nguyên đã trải qua một giai đoạn rất đặc
biệt. Đây là thời kỳ phong trào cách mạng ở miền Nam bị đánh phá hết sức ác
liệt, tổn thất nặng nề trong các chiến dịch “chống cộng, tố cộng” của chính
quyền Sài Gòn. Những cán bộ cọng sản không còn trụ lại được ở đồng bằng phải
lánh lên miền núi để bảo tồn lực lượng. Họ phải lặn mình trong đồng bào các dân
tộc Tây Nguyên, dựa vào dân, được dân bảo vệ, nuôi dưỡng mà tồn tại. Chính
trong hoàn cảnh này công tác vận động quần chúng đã được thực hiện tốt hơn cả.
Để tồn tại, và là tồn tại để rồi sẽ đến lúc bùng dậy giành lại thế tấn công,
những người cọng sản không chỉ dựa vào dân để được che chở mà còn phải ra sức
gây dựng và phát triển tốt nhất, sâu nhất mọi mặt đời sống xã hội ở vùng dân
tộc, và để làm được điều đó lại phải hiểu biết sâu sắc hơn bao giờ hết những
đặc điểm quan trọng nhất của xã hội này, tôn trọng và vận dụng những đặc điểm
đó trong công tác vận động quần chúng. Kết quả là trong khi phong trào cách
mạng ở đồng bằng phải trải qua một giai đoạn thoái trào nghiêm trọng, thì ở
miền núi và vùng đồng bào các dân tộc Tây Nguyên ngược lại không hề có thoái
trào, mà là phát triển mạnh mẽ và sâu sắc. Thậm chí ở một số vùng đã thực hiện
được những điều kỳ lạ: như ở vùng người Cơ Tu và người Cà Dong thuộc miền núi
Quảng Nam, một số cán bộ trụ bám ở lại tại đây đã tự mình mày mò sáng tạo ra
chữ viết cho hai dân tộc này và từ năm 1954 đến năm 1959 đã thanh toán xong nạn
mù chữ trong đồng bào dân tộc ở đây… Chính trên cơ sở đó mà khi bước vào cuộc
chiến tranh chống Mỹ Tây Nguyên đã đạt đến một thời kỳ có thể gọi là cao trào,
sự đóng góp của Tây Nguyên vào công cuộc chống Mỹ cứu nước là vô cùng to lớn.
Không thể hình dung cuộc chiến đấu vĩ đại này và chiến công giải phóng Sài Gòn
nếu không có Tây Nguyên…
Tóm
lại, do những điều kiện lịch sử đặc trưng, các dân tộc Tây Nguyên đến với cộng
đồng các dân tộc Việt Nam khá muộn, nhưng quá trình gia nhập và gắn bó với cộng
đồng này lại rất nhanh và sâu sắc. Cho đến năm 1975, tình hình Tây Nguyên là
rất tốt về mọi mặt.
4
– Về các dân tộc Tây Nguyên
Tây
Nguyên có khoảng 20 dân tộc khác nhau. Nói là “khoảng” vì có dân tộc theo bảng
phân định dân tộc chính thức của nhà nước hiện nay được coi là một nhánh của
một dân tộc chung lớn hơn, nhưng cho đến nay lại không chịu chấp nhận cách phân
loại đó mà tự coi mình là một dân tộc riêng. Như người Cà Dong ở miền núi tây
Quảng Nam, theo bảng phân loại dân tộc học của nhà nước là một nhánh của dân
tộc Xơ Đăng, nhưng hầu hết người Cà Dong nhất định tự coi mình là một dân tộc
riêng với tất cả các đặc điểm riêng của một dân tộc độc lập…
Các
dân tộc ở Tây Nguyên thuộc hai ngữ hệ khác nhau: Môn-Khơme (hay Nam Á) và
Malayo-Polynésien (hay Nam Đảo). Quan sát sự phân bố các dân tộc ở Tây Nguyên
theo ngữ hệ có thể thấy một điều đáng chú ý: thuộc ngữ hệ Môn-Khơme có các dân
tộc ở Bắc Tây Nguyên từ khoảng giữa tỉnh Gia Lai hiện nay trở ra, như các dân
tộc Xơ Đăng, Cơ Tu, Dẻ Triêng, Rơ Mâm, Ba Na, Brâu…, và các dân tộc ở miền Nam
Tây Nguyên từ nửa tỉnh Đắc Lắc trở vào như các dân tộc Mơ Nông, Kơ Ho, Mạ, Sre,
Stiêng… Chen vào giữa, trên vùng đất từ giữa tỉnh Gia Lai hiện nay cho đến nửa
tỉnh Đắc Lắc, là các dân tộc thuộc ngữ hệ Malayo-Polynésien gồm người Gia Rai,
người Ê Đê, người Chu Rú, người Rakglei. Người Chàm sống ở vùng duyên hải nam
Trung Bộ cũng thuộc ngữ hệ này. Có tác giả đã giải thích hiện tượng này như
sau: Từ xa xưa Tây Nguyên vốn là vùng đất của các dân tộc Môn-Khơme. Các dân
tộc Malayo-Polynésien đã từ các đảo phía nam đến, trước tiên đổ vào dải đồng
bằng ven biển Nam Trung Bộ hiện nay. Các dân tộc này đã chịu ảnh hưởng của văn
hoá Ấn Độ, trong số đó riêng người Chàm đã phát triển thành một vương quốc hùng
mạnh, và ép các dân tộc ở cạnh mình ra, buộc họ phải tìm cách tràn lên vùng đất
cao phía tây. Do địa hình dốc đứng trên sườn phía đông của cao nguyên này, họ
chỉ có thể tràn lên theo một số đường độc đạo nhất định: người Gia Rai đã lên
theo đường đèo An Khê (tức đường 19 hiện nay) và đường Bà Lá, Cà Lúi, lên Cheo
Reo, Ayun Par (tức đường số 25), chiếm cao nguyên Gia Lai; Người Ê Đê lên theo
đường đèo Phượng Hoàng (tức đường 26 hiện nay) chiếm cao nguyên Đắc Lắc; Người
Rakglei thì tạt lên mạn tây Khánh Hoà, Bình Thuận, Ninh Thuận, ở đây địa hình
dốc đứng cản trở họ có thể lên xa hơn. Như vậy các dân tộc Malayo-Polynésien đã
từ đồng bằng nam Trung Bộ tiến về phía tây, chen vào giữa như một chiếc nêm, ép
các dân tộc Môn-Khơme ra hai đầu. Đương nhiên điều này diễn ra trong những thời
kỳ lịch sử rất xa xưa, có thể khi Biển Đông còn cạn, miền nam bán đảo Đông
Dương có thể còn gắn liền với các đảo Nam Á.
Đông,
mạnh nhất ở Tây Nguyên là dân tộc Gia Rai, rồi đến người Ê Đê, người Ba Na,
người Xơ Đăng… Cũng có những dân tộc rất nhỏ như người Châu ở trong thung lũng
Mường Hon của núi Ngok Linh, chỉ có khoảng 80 người…
II.
Hai vấn đề lớn trong xã hội Tây Nguyên cổ truyền
A.
Làng
Trong
xã hội Tây Nguyên cổ truyền, vẫn còn rất đậm nét cho đến tận ngày nay, làng là
đơn vị xã hội cơ bản và duy nhất. Không có đơn vị xã hội cao hơn làng. Trong
nhiều ngôn ngữ các dân tộc Tây Nguyên không có từ để chỉ đơn vị cao hơn làng.
Boon trong tiếng Mơ Nông, Buôn trong tiếng Ê Đê, Plei trong tiếng Gia Rai, Ba
Na, Veil trong tiếng Cơ Tu… đều có nghĩa là làng. Ngày trước trong một số dân
tộc có từ T’ring dùng để chỉ liên minh giữa một số làng, nhưng đấy chỉ là những
liên minh tạm thời để cùng nhau đối phó với một số trở lực nào đó, khi trở lực
ấy đã được giải quyết thì những liên minh đó cũng tan rã, không hề có lãnh thổ
và tổ chức hành chính tương đương.
Trong
xã hội cổ truyền Tây Nguyên cũng không có đơn vị nhỏ hơn làng. Ở đây ý thức về
cá nhân chưa phát triển, không có cá nhân độc lập đối với làng. Khi gặp một
người Tây Nguyên, hỏi anh ta tên gì, thì phản xạ tự nhiên đầu tiên của anh ta
là trả lời: Tôi là người của làng X hay Y nào đấy. Gạn hỏi kỹ hơn nữa: Nhưng
anh tên là gì?, lúc đó anh ta mới trả lời rõ hơn: Tôi là A hay B ở làng X hay
Y. Vẫn không thể quên làng. Con người là một bộ phận nhỏ chìm trong cộng đồng
làng, hoaf tan trong làng, không thể tách rời khỏi làng. Ở Tây Nguyên, hình
phạt nặng nề nhất, nổi đau đớn lớn nhất, điều nhục nhã nhất đối với một người
là bị đuổi khỏi làng. Thậm chí trong trường hợp đó con người mất luôn cả tính
người, không làng nào khác chấp nhận anh ta nữa, anh ta sẽ trở thành như một
con thú, lang thang và chết vùi trong rừng. Nếu ta thường nói người Tây Nguyên
có tính cộng đồng rất cao, thì tính cộng đồng đó là tính cộng đồng làng, thậm
chí còn sâu đậm và cụ thể hơn cả ý thức về tộc người. Một người Ba Na biết mình
là người Ba Na, nhưng ý thức về tộc người Ba Na không sâu đậm bằng ý thức về
làng của mình. Ngày trước, trong chiến tranh bộ lạc, không phải chẳng hạn mấy
làng Ba Na này liên minh lại đi đánh nhau với mấy làng Gia Rai kia, mà là hai
ba làng Ba Na này liên minh với vài ba làng Gia Rai kia đi đánh hai ba làng Gia
Rai khác liên minh với vài ba làng Ba Na khác.
Làng
được điều hành bằng một tổ chức đặc biệt là Hội đồng già làng, gồm đại diện của
các hộ trong làng. Đứng đầu Hội đồng già làng là chủ làng. Già làng là những
người hiền minh nhất của làng, những người am hiểu rừng núi, đất đai, phong tục
tập quán, giàu kinh nghiệm sản xuất, kinh nghiệm sống, giỏi giang trong đối
ngoại, và là người có đức độ cao, được dân làng bầu lên, có thể bị truất phế
khi có những vi phạm đối với các quy định truyền thống của làng… Những người
như vậy thường là những người đã cao tuổi, nhưng cũng có những người còn khá
trẻ vẫn được bầu làm già làng nếu được sự tin cậy và kính trọng của toàn làng.
Hội
đồng già làng quản lý làng theo một hệ thống luật pháp đặc biệt: luật tục
(droit coutumier) của làng, tức những điều được cả cộng đồng công nhận và tuân
theo như là luật, song lại tồn tại dưới hình thức là những phong tục. Cũng có
người dịch là tập quán pháp, tức những tập quán được cả cộng đồng tuân thủ như
luật. Già làng chính là những người am hiểu tường tận luật tục. Trong Hội đồng
già làng thường có một người có chức năng phân xử mọi bất đồng hay vi phạm bằng
hình thức tòa án luật tục của làng.
Sức
sống bền vững của làng ở Tây Nguyên quả thật rất kỳ lạ, trải qua tất cả các
biến động của lịch sử. Trong các cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ vừa
qua, nhiều lúc làng bị đánh dữ dội, bị xé nát, bị di chuyển đi xa, nhưng rồi
cộng đồng làng lại được khôi phục, hồi sinh. Cho đến nay, mặc dầu bị xáo trộn
rất dữ trong những chuyển động xã hội suốt mấy mươi năm qua, về cơ bản cộng
đồng làng vẫn còn. Một bằng chứng đáng chú ý là trong mấy cuộc bạo động vừa rồi
ở Tây Nguyên, làng nào đã đi biểu tình thì bao giờ cũng đi nguyên cả một làng,
không bao giờ có hiện tượng đi lẻ tẻ, và đã đi cả làng thì bao giờ cũng là do
già làng dẫn đầu.
Trong
công tác vận động quần chúng ở Tây Nguyên thời chiến tranh chống Pháp, chống
Mỹ, kinh nghiệm thành công quan trọng nhất là phải hiểu biết sâu xa và dựa chắc
vào đặc điểm xã hội này, phát huy được vai trò của làng, của già làng trong mọi
việc, ở mọi tình huống. Không hiểu và nắm được làng và già làng, thì sẽ không
hiểu và nắm được gì cả ở Tây Nguyên, mọi công việc ắt thất bại. Và nếu làng ở
đây tan rã thì nguy cơ rối loạn xã hội sẽ rất lớn.
B.
Sở hữu Đất và Rừng
Ở
Tây Nguyên, rừng núi mênh mông vậy nhưng đều có chủ rành mạch, cụ thể. Không có
đất và rừng vô chủ. Người chủ của đất và rừng chính là các làng, từng làng.
Rừng núi, tất cả đã được “chia” cho từng làng từ xa xưa, “đã là như vậy từ tổ
tiên muôn đời truyền lại”, đã được “Yang (tức Thần linh) giao cho từng làng”,
có ranh giới rất rõ rệt. Đất, rừng của làng là thiêng liêng, không ai được xâm
phạm, không ai được làm ô uế. Người ta gọi đó là Quyền sở hữu tập thể của cộng
đồng làng đối với đất và rừng.
Sở
hữu rừng của một làng gồm có những loại rừng sau đây:
-
Rừng đã biến thành đất thổ cư
-
Rừng sản xuất, tức khu rừng dân làng khai thác để làm rẫy
-
Rừng sinh hoạt, là nơi dân làng tìm lấy những thứ cần thiết cho mọi sinh hoạt
của mình: con ong, cái mật, dây mây, rau ăn, con thú để săn bẫy, gỗ để làm nhà…
-
Rừng thiêng (hay rừng ma) là nơi trú ngụ của các Yang (Thần linh), không ai
được động đến, thường là rừng đầu nguồn. Đây thực chất là kinh nghiệm giữ rừng
đầu nguồn được tích lũy lâu đời của người dân, bọc bên ngoài là một lớp vỏ tín
ngưỡng.
Tất
cả các loại rừng đó hợp thành không gian sinh tồn (espace vital), hay cũng có
người như Condominas gọi là không gian xã hội (espace social) của làng. Một
làng cần có đủ các loại rừng kể trên để có thể sinh tồn như một không gian xã
hội, làm nên tế bào cơ bản của xã hội Tây Nguyên.
Hội
đồng già làng quản lý sở hữu tập thể này của cộng đồng làng bằng một hệ thống
luật tục chặt chẽ và sinh động. Chính Hội đồng già làng chia khu rừng sản xuất
cho các hộ trong làng để làm rẫy theo đúng những quy định trong luật tục, cũng
theo đúng những quy định đó khai thác khu rừng sinh hoạt cho các nhu cầu hằng
ngày của mình, giữ gìn khu rừng thiêng, và tôn trọng đúng các tập quán trong
làng, tức trong khu rừng đã biến thành đất thổ cư, thành làng. Hằng năm, đất
rừng làm rẫy có thể được điều chỉnh lại giữa các hộ nếu có người đông lên hay
giảm đi. Về nguyên tắc, các hộ trong làng có thể chuyển đổi đất rừng canh tác
cho nhau, nhưng tuyệt đối không được chuyển nhượng ra khỏi làng.
Như
vậy, hai đặc điểm quan trọng của xã hội cổ truyền Tây Nguyên, Làng và Sở hữu
tập thể của cộng đồng làng đối với đất và rừng gắn chặt với nhau. Chúng ta thấy
rõ làng Tây Nguyên là “làng rừng” và là:
-
một cộng đồng cư trú
-
một cộng đồng sở hữu và lợi ích
-
một cộng đồng tâm linh
-
một cộng đồng văn hoá
Quyền
sở hữu tập thể của cộng đồng làng đối với đất và rừng chính là nền tảng kinh
tế, vật chất của thực thể cộng đồng làng. Toàn bộ đời sống vật chất, kinh tế,
văn hoá, tinh thần, tâm linh, đạo đức của làng, của con người Tây Nguyên tồn
tại trên nền tảng này. Sẽ rối loạn, đổ vỡ tất cả khi nền tảng này bị tổn thương
và mất đi.
III.
Tây Nguyên từ sau năm 1975
A.
Những chủ trương lớn đối với Tây Nguyên từ sau năm 1975
Từ
sau năm 1975, đối với Tây Nguyên chúng ta có hai chủ trương chiến lược:
* Xây
dựng Tây Nguyên thành một địa bàn vững chắc về an ninh và quốc phòng, tương
xứng với vị trí chiến lược của vùng cao nguyên quan trọng này.
* Xây
dựng Tây Nguyên thành một vùng trọng điểm kinh tế của cả nước.
Để
thực hiện chủ trương chiến lược đó, đã:
-
Tăng cường lực lượng lao động lớn cho Tây Nguyên bằng cách tiến hành một cuộc
đại di dân chưa từng có, chủ yếu từ đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng duyên
hải Nam Trung Bộ lên Tây Nguyên. Theo kế hoạch ban đầu, dự kiến sẽ đưa lên Tây
Nguyên 5 triệu dân. Kế hoạch này cũng đồng thời nhằm giải toar áp lực dân số
cho hai vùng đồng bằng nói trên.
-
Tổ chức toàn bộ Tây Nguyên thành các đơn vị kinh tế lớn: trong 10 năm đầu là
các Binh đoàn làm kinh tế, gồm 3 binh đoàn 331, 332, 333 bao trùm gần toàn bộ
Tây Nguyên. Mười năm sau, quân đội giao lại cho dân sự, các binh đoàn làm kinh
tế chuyển thành các Liên Hiệp Xí nghiệp Nông, Lâm, Công nghiệp (LHXNNLCN), cũng
bao trùm gần hết Tây Nguyên. Sau 10 năm nữa, nhận thấy mô hình quản lý này
không hiệu quả, đã giải tán các LHXNNLCN, tổ chức lại thành các nông trường,
lâm trường thuộc tỉnh hoặc thuộc trung ương.
Toàn
bộ đất và rừng ở Tây Nguyên được quốc hữu hoá, được lấy giao cho các binh đoàn
làm kinh tế, các LHXNNLCN, các nông trường, lâm trường, và giao cho dân di cư
từ đồng bằng lên. Người bản địa chỉ còn phần đất thổ cư và một ít đất làm rẫy.
B.
Một số ngộ nhận hoặc hời hợt trong chủ trương, chính sách đối với Tây Nguyên
*
Về quyền sở hữu đất và rừng.
Ngộ
nhận lớn nhất, tai hại nhất khi lập chủ trương, chính sách đối với Tây Nguyên
là ta hầu như hoàn toàn không biết, không hề quan tâm đến quyền sở hữu truyền
thống ở Tây Nguyên đối với đất và rừng. Ta đã ngộ nhận đất, rừng Tây Nguyên là
vô chủ, là đất giữa trời, chẳng của ai hết. Ta đã hành động ở Tây Nguyên như
trên một vùng đất không có người, lấy đất và rừng từ ngàn đời nay đã “được Yang
giao cho làng”, từng làng, đem giao cho các đơn vị làm kinh tế mới được lập lên
và cho hàng triệu người nơi khác được đưa đến, một cách hết sức “vô tư”. Đây là
điều chưa từng diễn ra trong suốt lịch sử lâu dài ở Tây Nguyên từ xưa đến nay.
* Về
phương thức canh tác ở Tây Nguyên: người Tây Nguyên có du canh, du cư?
Để
làm mọi việc ở Tây Nguyên, cũng như ở nhiều vùng miền núi khác, ta đã chủ
trương trước hết phải định canh, định cư. Công tác định canh, định cư được coi
là biện pháp hàng đầu, quan trọng, quyết định nhất, trước khi tiến hành mọi
việc khác. Chủ trương đó dựa trên nhận định người Tây Nguyên vốn du canh, du cư,
và du canh, du cư, làm rẫy thì phá rừng… Vậy người Tây Nguyên có du canh, du
cư, phá rừng?
Hãy
thử nhìn vào kiến trúc ở Tây Nguyên. Một số dân tộc thuộc ngữ hệ Môn-Khơ Me ở
phía Bắc Tây Nguyên có kiến trúc nhà rông rất đặc sắc. Nhà rông làng Kông Rơ
Bàng của người Ba Na ở Kontum, được dựng lại đúng y nguyên mẫu, đúng nguyên
kích thước tại Bảo tàng Dân tộc học Hà Nội, cao đến vài chục mét, bằng một toà
nhà 5 tầng, cột nhà rông to hai người ôm, mái cao vút sừng sững. Những dân tộc
thuộc ngữ hệ Malayo-Polynésien không có nhà rông thì lại có kiến trúc nhà dài
đặc sắc không kém. Nhà dài của ông Ama Thuột (tại thành phố Buôn Ma Thuột hiện
nay) ngày trước dài đến gần 200 mét, đến nổi khi người chủ nhà muốn tập họp con
cháu trong nhà thì phải thổi tù và. Các làng Ê Đê hiện nay vẫn còn những nhà
dài đến vài ba chục mét, cây đòn dông trên mái nhà là một cây gỗ nguyên khối,
không thể tìm thấy chỗ nối… Những dân tộc có kiến trúc vững chãi, đồ sộ như vậy
chắc chắn không thể là những dân tộc sống tạm bợ, lang thang nay đây mai đó. Họ
không hề du cư. Người Tây Nguyên chỉ dời làng trong mấy trường hợp: khi có dịch
bệnh, chết nhiều người, “đất làng độc, có ma”; hoặc khi mất nguồn nước uống bao
giờ cũng được dẫn từ trên đỉnh núi cao xuống, bảo đảm trong sạch; và trong trường
hợp chiến tranh bộ lạc ngày trước… Còn thì làng là làng định cư ở một vị trí
thuận lợi cho phương thức canh tác cũng không hề du canh. Người Tây Nguyên làm
rẫy bằng cách đốt một khoảnh rừng và tỉa lúa xuống đấy. Chất mùn do lá rụng lâu
năm và chất tro đốt có tác dụng phân bón. Một khoảnh đất canh tác như vậy trong
hai hay ba năm thì bạc màu, người ta để hưu canh (ở Tây Nguyên gọi là “rẫy
dế”), chuyển sang đốt một khoảnh rừng khác. Kỹ thuật chặt và đốt rừng làm rẫy
được quy định rất chặt chẽ trong luật tục, không hề lãng phí và không bao giờ
để xảy ra cháy rừng… Mỗi hộ trong làng thường có từ 10 đến 20 rẫy. Khi đã khai
thác đến rẫy thứ 10 hay thứ 20, quay lại rẫy đầu tiên thì đã là 40 đến 60 năm,
đủ thời gian cho rừng tái sinh. Đấy là phương thức tìm lấy thức ăn từ rừng và
nuôi rừng khôn ngoan đã được tích luỹ và thử thách hàng nghìn đời. Cuốn sách
nổi tiếng Chúng tôi ăn rừng… của nhà dân tộc học George Condominas chính
là nói về cách sinh sống này của người Mơ Nông Gar ở nam Đắc Lắc. Đây là phương
thức canh tác “luân khoảnh” – cách gọi đúng hơn “luân canh”, luân canh có thể
được hiểu là năm nay trồng loại cây này sang năm chuyển sang trồng loại cây
khác. Kinh nghiệm được tổng kết ở nhiều nơi trên thế giới cho thấy nếu mật độ
dân số không quá 10 người/km² thì làm rẫy không hề phá rừng. Làng Tây Nguyên
định cư ở tâm điểm của vòng luân khoảnh ấy. Trong thực tế những thời gian cần
phải làm việc nhiều ở rẫy những người lao động chính thường sống ở chòi rẫy,
trong làng chỉ còn người già và trẻ em. Hết mùa rẫy làng lại đông vui, đây cũng
là mùa “Ninh Nông” (mùa không làm rẫy), mùa lễ hội tưng bừng của Tây Nguyên.
Không
hiểu đúng phương thức sinh sống và canh tác truyền thống của người Tây Nguyên,
nhận định một cách cảm tính rằng người Tây Nguyên du canh, du cư, làm rẫy phá
rừng… thì tất yếu không thể hiểu làng, cơ cấu, nền tảng vật chất, không gian
sinh tồn, vai trò, vị trí của làng, tế bào cơ bản của xã hội Tây Nguyên. Tức
cũng không thể hiểu đúng xã hội này, lại vào lúc chúng ta đang muốn tạo ra
những thay đổi to lớn nhất xưa nay chưa từng có trên vùng đất và người ở đây.
Cuộc vận động định canh định cư, thực chất mang nhiều tính chất ép buộc, cũng
đã góp phần phá vỡ các làng Tây Nguyên cổ truyền, làm xáo trộn xã hội.
* Hiểu
rừng, cội nguồn của văn hoá và đời sống tâm linh ở Tây Nguyên
Đối
với người Tây Nguyên, rừng không chỉ là tài nguyên, thậm chí cũng không chỉ là
“môi trường”, “sinh thái” như cách hiểu thông thường của chúng ta về môi
trường, sinh thái. Người Tây Nguyên có phong tục “bỏ mả”. Khi một người chết,
người ta chôn trong một ngôi mộ tạm, con người ấy còn được coi như chưa đi hẳn
khỏi thế giới này. Hàng ngày, người ta vẫn mang cơm nước và các vật dụng ra mộ
để “nuôi” như nuôi một người còn sống. Trong thời gian đó, lâu ngắn tuỳ theo
điều kiện của từng gia đình, người ta chuẩn bị một ngôi nhà mồ thật đẹp (trên
chính ngôi mộ tạm), khi mọi việc đã xong thì làm lễ bỏ mả, một trong những lễ
hội lớn và quan trọng nhất ở Tây Nguyên, diễn ra trong mùa Ninh Nông. Cả làng
đều tham gia, nhiều làng lân cận cũng kéo đến, người ta làm lễ tiễn đưa người
chết mãi mãi đi khỏi thế gian này. Sau lễ lớn đó, ngôi mộ sẽ bị bỏ hẳn, không
ai chăm sóc, viếng thăm gì nữa. Con người ấy, theo quan niệm của người Tây
Nguyên, vốn là một mẩu nhỏ của rừng vô tận và trường cữu, từ trong thăm thẳm
không cùng của rừng mà đi ra, nay lại mãi mãi trở về với cội nguồn của mình là
rừng, được trả về cho cội nguồn đó. Con người là một bộ phận nhỏ, và cũng có
thể nói là tạm thời của thực thể to lớn và vĩnh cữu là rừng. Rừng mới là tất
cả, là trường tồn, con người và cuộc sống trần thế của con người chỉ là một
phần rất nhỏ, thoáng qua của thực thể bao trùm kia.
Người
Tây Nguyên, tự trong sâu thẳm của họ, có một tình cảm thân thiết ruột thịt và
một lòng kính trọng thiêng liêng đối với rừng, họ coi từng cây rừng đúng như
một sinh vật sống chẳng hề thua kém con người, cũng có linh hồn ngang bằng con
người, cũng đầy cảm xúc, vui mừng, hạnh phúc, đau đớn hệt con người. Khi buộc
phải chặt hạ một cây gỗ cho nhu cầu thiết yếu của mình, bao giờ người Tây Nguyên
cũng ân cần làm lễ xin lỗi cây, tạ ơn rừng. Người Tây Nguyên sống “theo đạo đức
của rừng”, quan niệm con người cần phải hiền minh như rừng.
Như
vậy ở Tây Nguyên, rừng là cội nguồn của đời sống tâm linh, tức phần sâu xa nhất
trong con người và cộng đồng người, mất rừng thì con người và cộng đồng người
mất đi cái nền rộng lớn, bền chặt, sâu thẳm nhất của mình, trở nên bơ vơ, “tha
hoá”, mất gốc, mất cội nguồn.
Rừng
cũng là cội nguồn của văn hoá, văn hoá Tây Nguyên là văn hoá rừng, toàn bộ đời
sống văn hoá ở đây đều là biểu hiện mối quan hệ khắng khít, máu thịt của con
người, cộng đồng người với rừng. Khi không còn rừng thì tất yếu văn hoá sẽ
chết. Còn lại chỉ là những cái xác của văn hoá, văn hoá dỏm, giả…
Hiểu
rừng một cách hời hợt, coi chỉ là tài nguyên, thậm chí là môi trường, sinh
thái, tất không thể hiểu đúng nền tảng sâu xa, cơ bản nhất của xã hội này, và
mọi việc làm của chúng ta ở đây chắc chắn không thể thành công, chỉ trợt đi
trên bề mặt của thực tế, không ăn được vào đời sống.
* Sức
chịu đựng cây công nghiệp của Tây Nguyên
Tây
Nguyên là vùng đất bazan lớn nhất nước và đất bazan đặc biệt thích hợp với một
số cây công nghiệp như cà phê, cao su… tạo ra sản phẩm có giá trị xuất khẩu
đáng kể. Chủ trương biến Tây Nguyên thành một vùng trọng điểm kinh tế trong cả
nước chính là dựa phần lớn vào ưu thế này. Tuy nhiên sức chịu đựng cây công
ngiệp của Tây Nguyên dẫu lớn nhưng cũng có hạn, phát triển quá một mức nào đó
thì sẽ phá rừng. Hạn mức đó đối với cà phê là 500.000 hecta, hiện nay đã bị
vượt quá. Rừng Tây Nguyên là rừng nhiệt đới, nhiều tầng, thảm thực vật rất dày.
Các nhà khoa học cho biết lá cây rừng nhiệt đới có tác dụng hấp thu năng lượng
mặt trời gấp 30 lần rừng trồng. Cây cà phê, cả cây cao su, và đến cả rừng trồng
đều không thể thay thế rừng nhiệt đới nguyên sinh.
Ở
Tây Nguyên còn có vấn đề nước. Đất bazan không giữ nước. Đến mùa khô Tây Nguyên
hầu như hoàn toàn không có nước. Những người trồng cà phê phải khoan sâu đến
hàng trăm mét lấy nước ngầm tưới cà phê. Nguồn nước ngầm bị khai thác quá mức.
Đến năm 1997, tầng nước ngầm ở Tây Nguyên đã tụt xuống 20 mét. Nếu tiếp tục
tình trạng này, sẽ dẫn đến hiện tượng latérite hoá, tức đá ong hoá. Chúng ta sẽ
để lại cho con cháu một cao nguyên đá ong !
C.
Hệ quả
Những
việc làm của chúng ta ở Tây Nguyên từ sau 1975 như đã trình bày trên đã đưa đến
những hệ quả:
1-
Dân số Tây Nguyên tăng nhanh, đột ngột, với cường độ lớn. Năm 1975, dân số Tây
Nguyên khoảng dưới 1 triệu người, đến nay đã lên 5 triệu người, tăng gấp 5 lần,
là vùng tăng dân số nhiều và nhanh nhất nước. Và ở đây là tăng cơ học, tức do
đưa người nơi khác đến, chứ không phải tăng tự nhiên. Tăng tự nhiên với tỷ lệ
sinh đẻ quá cao cũng gây ra nhiều khó khăn, như các dịch vụ xã hội thiết yếu
(giáo dục, y tế, an sinh xã hội…) không theo kịp. Nhưng tăng cơ học thì đưa đến
một tình hình nghiêm trọng hơn nhiều: nó làm đảo lộn cơ cấu dân cư, và từ đó
tất yếu gây ra những đảo lộn về mọi mặt. Ngay từ sau năm 1975, đã có những cảnh
báo của một số nhà khoa học và nhà văn hoá, cho rằng chủ trương đưa dân lên Tây
Nguyên với tốc độ và cường độ quá cao là nguy hiểm, có thể là sai lầm chiến
lược, nhưng lời cảnh báo đã không được nghe. Theo kinh nghiệm của thế giới,
tăng dân số cơ học đến 3%/năm là mức báo động. Trong thực tế, suốt hơn 30 năm
qua dân số Tây Nguyên đã tăng cơ học từ 7 đến 10%/năm.
Xét
cơ cấu dân cư Tây Nguyên trong một thế kỷ qua, có thể thấy:
Đầu
thế kỷ XX, các dân tộc bản địa chiếm 95% dân số.
Đến
năm 1975, tỷ lệ này là 50%.
Hiện
nay người bản địa chỉ còn 15-20% trên toàn địa bàn (Ở tỉnh Đắc Lắc, người bản
địa còn 15%, tỉnh Đắc Nông còn 10%, tỉnh Kontum còn khoảng 50-55%… Người Tày ở
Đắc Lắc đã đông hơn người Ê Đê bản địa). Người bản địa đã trở thành thiểu số,
không phải trong cộng đồng Việt Nam nói chung, mà là thiểu số với tỷ lệ rất
nhỏ, ngày càng nhỏ ngay chính trên quê hương ngàn đời của mình. Có thể nói,
chính ở Tây Nguyên trong hơn 30 năm qua đã diễn ra những biến động xã hội lớn
và sâu sắc nhất so với cả nước, nhưng những biến động đó lại rất âm thầm, hầu
như không ai biết (cho đến ngày tình hình đột ngột mất ổn định).
2
– Sự tan vỡ của làng Tây Nguyên
Từ
sau năm 1975, quyền sở hữu tập thể truyền thống của cộng đồng làng đối với đất
và rừng nghiểm nhiên bị xoá bỏ, tất cả đất và rừng đều bị quốc hữu hoá. Như đã
thấy ở trên, quyền sở hữu này chính là nền tảng vật chất, kinh tế của làng; bị
bứng mất đi nền tảng này, làng, tế bào cơ bản của xã hội Tây Nguyên, tất yếu
tan vỡ. Đây là sự đổ vỡ chưa từng có ở Tây Nguyên từ xưa đến nay, tác động đến
tận gốc rễ của xã hội này. Càng đáng chú ý là làng, pháo đài bền vững của sức
đề kháng xã hội ở Tây Nguyên trong suốt lịch sử lâu dài, nay lại bị phá vỡ đúng
vào lúc Tây Nguyên, cũng như bất cứ vùng nào khác trong cả nước, đang phải đối
mặt với những thách thức lớn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, của hội nhập, ở
Tây Nguyên đương nhiên càng nặng nề, khó khăn hơn bất cứ nơi nào khác. Chúng ta
đã vô tình triệt tiêu mất sức đề kháng cơ bản của Tây Nguyên bằng cách phá vỡ
các “chốt” đề kháng vốn bất khả chiến thắng của nó đúng vào lúc nó phải đương
đầu với biến động lớn nhất. Theo một cách nào đó có thể nói trạng thái xã hội ở
Tây Nguyên vừa qua và hiện nay là trạng thái của một cơ thể bị tước mất sức đề
kháng sâu tận trong từng tế bào, hết sức dễ bị tổn thương.
Tình
hình đó tất yếu dẫn đến những hệ quả tiếp theo không thể tránh:
3
– Môi trường bị tàn phá nghiêm trọng
Như
đã nói ở trên, sau năm 1975, đất rừng ở Tây Nguyên được lấy giao cho các binh
đoàn quân đội làm kinh tế, sau đó cho các LHXNNLCN, rồi đến các nông trường,
lâm trường. Cho đến năm 1997, 90% đất rừng Tây Nguyên nằm trong tay các tổ chức
quốc doanh. Thực tế hơn 30 năm qua đã chứng minh tất cả các chủ sơ hữu đó đều
không giữ được rừng, trái lại là tác nhân phá rừng dữ dội nhất. Mỗi loại chủ sở
hữu đó có cách phá rừng khác nhau, và đều nghiêm trọng như nhau.
Một
phần lớn diện tích rừng còn lại được lấy giao cho dân di cư từ đồng bằng lên,
lúc đầu là di cư theo kế hoạch của nhà nước, từ năm 1979 trở đi là dân di cư tự
do, gồm cả đồng bào các dân tộc thiểu số miền núi phía bắc (kể từ sau chiến
tranh biên giới năm 1979). Những người mới đến lập tức cần có ngay lương thực
để sinh sống, họ liền phá rừng để làm lương thực; sau đó lại tiếp tục phá để
khai thác gỗ đem bán. Những người này cũng có tập quán canh tác hoàn toàn khác
người Tây Nguyên. Người Việt vốn rất sợ rừng (“rừng thiêng nước độc”, “ăn của
rừng rưng rưng nước mắt”…). Khác với người Tây Nguyên vốn sống chìm trong rừng,
tự hoà tan mình trong rừng, coi rừng thân thiết như mẹ, người Việt đến đâu thì
liền thấy có nhu cầu phá rộng ra cho trống chung quanh. Người Việt không có văn
hoá rừng, bao giờ cũng thấy chật chội, rất sợ chìm đắm trong rừng. Ngay những
người thuộc các dân tộc thiểu số phía bắc đến cũng có tập quán canh tác khác
hẳn. Người Hmông chẳng hạn (là một dân tộc đổ lên Tây Nguyên rất mạnh, rất
quyết liệt) đúng là một dân tộc du cư du canh, đến đâu là họ cạo trọc ngay toàn
bộ rừng nơi họ đổ ập vào, không gì ngăn cản được. Hết khu rừng này, họ tiến
sang khu rừng khác, triệt phá sạch đến cùng. Cũng cần phân biệt “rẫy” với
“nương”, làm rẫy và làm nương là hai phương thức canh tác hoàn toàn khác nhau.
Làm rẫy, như đã nói, là cách quảng canh luân khoảnh trong điều kiên mật độ dân
số không cao. Còn nương là rẫy đã được chuyển sang canh tác cố định và chăm sóc
như vườn. Trên rẫy bao giờ người ta cũng giữ lại một số cây hay gốc cây lớn để
chống xói mòn, còn trên nương thì phải dọn sạch, san phẳng hoàn toàn, làm cho
đất tơi ra (do đó rất dễ bị xói mòn). Làm nương cũng là cạo sạch rừng, từ nay ở
đấy tuyệt đối không còn có rừng nữa, rừng đã vĩnh viễn trở thành đất canh tác,
chẳng khác gì ruộng. Trái lại bản chất của làm rẫy là giữ rừng, mượn tạm rừng
của Mẹ Tự nhiên để xin lấy cái ăn, rồi trân trọng trả lại cho Tự nhiên. Jacques
Dournes đã gọi làm rẫy là lối canh tác “sang trọng” (de luxe) trong điều kiện mật
độ dân số không cao. Cũng có thể gọi là lối canh tác nhân ái, thân thiện.
Các
dân tộc bản địa Tây Nguyên, với mật độ dân số trong vùng tăng lên quá cao như
hiện nay, cũng không còn có thể làm rẫy luân khoảnh, vừa tìm lấy cái ăn từ rừng
vừa nuôi rừng như xưa. Họ lại bị những người nơi khác đến, năng nổ và khôn
ngoan hơn, chiếm lấy những vùng đất thuận lợi nhất, màu mỡ, bằng phẳng, gần
sông, gần đường…, phải lùi vào rừng ngày càng sâu, và không còn đủ đất để luân
khoảnh được nữa, bây giờ họ thật sự biến thành những người du canh du cư và phá
rừng!…
Cho
đến nay, trừ một vài vùng nhỏ như một ít khu vực quanh núi Ngok Linh, vùng
Komplong…, có thể nói về cơ bản rừng Tây Nguyên đã bị phá sạch, hậu quả về
nhiều mặt không thể lường.
4
-Người bản địa bị mất đất
Tình
hình trên tất yếu đưa đến việc người bản địa bị mất đất. Rất đáng chú ý là việc
mất đất này diễn ra chính là sau khi thực hiện việc giao đất giao rừng, cấp sổ
đỏ cho người dân. Lúc bấy giờ, một số cơ quan chức năng như Viện Dân tộc học và
một số nhà khoa học đã có kiến nghị: ở Tây Nguyên không nên giao đất cho hộ như
ở đồng bằng mà là giao cho làng, để làng quản lý theo kinh nghiệm truyền thống,
và cấm không được chuyển nhượng đất cho “người khác tộc” (cũng tức là không
được chuyển nhượng ra khỏi làng), nhưng kiến nghị này không hề được chú ý. Đất
vẫn được giao cho các hộ với đầy đủ 5 quyền. Kết quả:
Vì
người bản địa nay đã trở thành thiểu số với tỷ lệ rất thấp, nên trong thực tế
đất đã được giao rất nhiều cho người nơi khác đến.
Người
Tây Nguyên, như đã nói, chưa phát triển ý thức về cá nhân, về sở hữu cá thể,
nên cũng không có ý thức khư khư giữ đất cho cá nhân, cho hộ.
Đất
lại được giao hệt như ở vùng Kinh, chỉ gồm phần đất thổ cư, một ít đất làm rẫy,
người bây giờ lại đã quá đông, không còn đất để thực hiện luân khoảnh, nên chỉ
sau vài ba mùa, rẫy bạc màu, người ta rất dễ dàng đem bán với giá rất rẻ, thậm
chí có thể đem cho không chỉ sau một bữa rượu! Nhân cơ hội này, một số cán bộ
đã dùng quyền lực chiếm rất nhiều đất.
Cuối
cùng, đất từ tay người dân tộc bản địa chuyển dần hết sang tay người nơi khác
đến. Người bản địa mất đất, chỉ còn hai con đường: lùi vào núi sâu, ngày càng
khốn đốn, hoặc ở lại tại chỗ và đi làm thuê cho người nơi khác đến, chủ yếu là
người Kinh, ngay trên mảnh đất truyền lại từ tổ tiên của mình. Chẳng khác tình
cảnh làm cu li thời sau Sabatier. Điều nghịch lý của Tây Nguyên là các chỉ số
phát triển ở đây đều khá cao so với nhiều vùng khác nhưng người bản địa, chủ
nhân lâu đời của vùng đất này, lại bị bần cùng hoá, bị đẩy vào thế cùng. Tức
phát triển lãnh thổ nhưng không phát triển được chủ thể trên lãnh thổ ấy.
Việc
mất đất, không phải trong một xã hội bình thường mà là từ tay người dân tộc bản
địa sang tay người nơi khác đến là người Việt, đã khiến vấn đề đất đai trở
thành vấn đề dân tộc. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp của sự mất ổn định
nghiêm trọng đã và đang diễn ra ở Tây Nguyên.
(Kinh
nghiệm lịch sử: Luật Hồng Đức thời Lê Thánh Tông, khôn ngoan hơn chúng ta, đã
biết chú ý và có những quy định riêng sáng suốt cho vùng dân tộc thiểu số khác
với những quy định chung cho cả nước. Chẳng hạn có điều luật cấm không được cho
vay mượn giữa người Kinh và người Man Liêu (tức các dân tộc thiểu số), vì hiểu
rằng quan niệm về giá trị, về quyền sở hữu giữa hai bên khác nhau, sự vay mượn
giữa hai bên tất dễ sinh những bất đồng, lừa đảo, lạm dụng…).
5-
Văn hoá Tây Nguyên bị mai một
Việc
mất rừng, tan vỡ của làng, cơ cấu dân cư bị đảo lộn lớn và đột ngột, người bản
địa bị mất đất và mất gốc rễ trở thành lang thang trên chính quê hương ngàn đời
của mình… tất yếu đưa đến đổ vỡ về văn hoá. Khi nói đến văn hoá Tây Nguyên,
người ta thường nói đến nhà rông, nhà dài, cồng chiêng, các loại nhạc cụ độc
đáo, các lễ hội…, không sai, nhưng đó là những biểu hiển ra bên ngoài, trên bề
mặt của văn hoá, nếu tách những cái đó ra khỏi làng và rừng, mất rừng và mất
làng, thì tất cả chỉ còn là những cái xác của văn hoá, những cái xác không có
hồn. Mà ai cũng biết, văn hoá là hồn chứ không phải xác. Nên chú ý khi công
nhận di sản văn hoá thế giới ở Tây Nguyên, UNESCO đã rất tinh, không phải công
nhận cồng chiêng, cũng không phải âm nhạc cồng chiêng, mà là “không gian văn
hoá cồng chiêng”, không gian ấy tức là rừng và làng.
Hiện
nay trong lĩnh vực văn hoá ở Tây Nguyên, có hai điều đáng lo:
Hầu
như không còn văn hoá thật của Tây Nguyên, chỉ có văn hoá giả Tây Nguyên, khai
thác chất lạ (exotique) của Tây Nguyên, tạo nên một thứ văn hoá diễn, thu hút
khách du lịch hám lạ, trong khi đời sống văn hoá thật của con người Tây Nguyên
thì nghèo nàn, cằn cỗi. Đi dọc Tây Nguyên bây giờ chỉ còn thấy các kiến trúc
của người Việt cố pha chút “độc đáo” nào đó, như làm mái cao vút lên, nhô nhọn
ra… để giả chất Tây Nguyên. Nhà rông thì do nhà nước xây cho các làng, mà nhà
rông là thứ “không thể đem cho”. Ở Tây Nguyên, khi lập một làng mới, việc quan
trọng và thiêng liêng nhất là già làng chọn địa điểm và điều khiển việc cất nhà
rông. Nhà rông là trái tim, là linh hồn của làng, chưa có nhà rông thì một làng
chưa thực sự thành làng, và nhà rông bao giờ cũng phải do dân làng tự tay mình
làm nên. Một nhà rông của nhà nước đem cho thì dù đẹp đến mấy cũng không thể
trở thành nhà rông của làng, dân làng sẽ không bao giờ sử dụng, không thèm bước
chân vào, sẽ để mốc meo, tàn tạ. Thật ra điều này cũng chẳng có gì lạ, đối với
người Việt cũng hoàn toàn đúng như thế. Một cái miếu ở làng quê chẳng hạn bao
giờ cũng được lập nên bắt đầu từ một sự tích nào đấy, một người có công với
làng với nước, nay chết đi, nhân dân nhớ ơn mà lập miếu thờ. Hoặc thậm chí một
cô gái thất tình, chết oan uổng trong một hoàn cảnh éo le nào đấy, bỗng trở nên
linh thiêng, người ta cất miếu thờ. Một cái miếu do nhà nước tự dưng cất lên
giữa đồng, một cái miếu “quốc doanh” thì chắc chắn chẳng ai đến hương khói làm
gì!...
Ở
Tây Nguyên hiện nay chúng ta đang “chơi” những cái xác văn hoá như vậy!
Mặt
khác, hiện đại hoá, toàn cầu hoá và hội nhập cũng tất yếu đưa những luồng văn
hoá lạ xâm nhập vào Tây Nguyên. Một sự xâm nhập như vậy là tự nhiên, không thể
tránh. Điều đáng nói là nó diễn ra đúng vào lúc nền tảng và tế bào cơ bản của
xã hội Tây Nguyên, do những sai lầm của chúng ta nhiều năm qua, bị phá vỡ,
khiến sức đề kháng và khả năng thích nghi của nó bị triệt tiêu. Văn hoá bản địa
bị lai căng. Quan sát lớp người trẻ trong các dân tộc bản địa, có thể thấy có
hiện tượng “đứt gãy” về văn hoá rất đáng lo ngại. Những thanh niên người dân
tộc khi đã bị hư hỏng thì lại hư hỏng nặng hơn, tha hoá, lưu manh hoá dữ hơn cả
những người cùng lứa tuổi ở vùng Kinh. Họ bị đổ vỡ vì mất nền. Chính điều này
cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự ổn định xã hội. Đi vào các làng Tây Nguyên hiện
nay, rất đau lòng thấy thanh niên hầu như không còn uống rượu cần làm bằng ngũ
cốc lên men được chiết từ các loại lá, vỏ, rể cây trong rừng, đậm đà, mà say
tuý luý rượu đế, thậm chí khi không đủ tiền mua rượu đế thì pha cả cồn ra để
uống. Thanh niên Tây Nguyên, vốn có cơ thể cường tráng và tuyệt đẹp, nay đang
bị suy thoái cả về thể chất, sự suy thoái nòi giống sẽ không còn xa.
6-
Cảnh báo sớm của một nhóm nghiên cứu về tình hình Tây Nguyên
Năm
1997, một nhóm nghiên cứu thuộc Viện Dân tộc học Việt Nam gồm các tác giả Vũ
Đình Lợi (nay đã mất), Bùi Minh Đạo và Vũ Thị Hồng đã hoàn thành một công trình
có tên là Sở hữu và sử dụng đất đai ở Tây Nguyên, được giáo sư Đặng Nghiêm
Vạn viết lời giới thiệu vào năm 1999, và ấn hành tại Nhà Xuất bản Khoa học Xã
hội vào năm 2000. Sau khi đã trình bày các dữ liệu, phân tích toàn diện và tỉ
mỉ tình hình đất và rừng ở Tây Nguyên từ sau năm 1975, các tác giả đã đưa ra
lời cảnh báo mạnh mẽ như sau:
“Sẽ
là không quá sớm khi đưa ra lời cảnh báo rằng nếu không kịp thời có giải pháp
khắc phục những khiếm khuyết của quá trình khai thác và sử dụng đất đai thì
“vấn đề dân tộc” sẽ rất có thể phát sinh trong thực tế nay mai ở Tây Nguyên,
chí ít là mất ổn định, nghiêm trọng là máu lại đổ, với sự can thiệp vừa kín
đáo, vừa trắng trợn của kẽ thù dưới chiêu bài bảo vệ người dân tộc, bảo vệ
quyền tự do tôn giáo. Một khi vấn đề dân tộc và tôn giáo quyện vào nhau thì
nguy cơ tới thật khó lường”.
Đây
thật sự là một lời cảnh báo đầy trách nhiệm, trung thực, dũng cảm và đã được
chứng tỏ là hoàn toàn chính xác. Rất tiếc là nó đã hoàn toàn bị bỏ ngoài tai,
thậm chí cả sau khi những điều cảnh báo đã thành hiện thực!
Như
vậy, sau hơn 30 năm triển khai, hai mục tiêu chiến lược được đề ra từ đầu đối
với Tây Nguyên đã không thực hiện được. Tây Nguyên đã trở thành một vùng mất ổn
định nhất trong cả nước ; và việc xây dựng một vùng trọng điểm phát triển kinh
tế trên một cơ sở mất ổn định như vậy chắc chắn không thể bền vững. Lãnh thổ
tuy có được phát triển – cũng là một cách méo mó – nhưng chủ nhân của lãnh thổ
thì bị bần cùng hoá và bế tắc. Tìm một con đường khắc phục những thực trạng đó
hiện nay ở Tây Nguyên đã trở nên rất khó khăn.
IV.
Phát triển bền vững ở Tây Nguyên
A.
Phát triển bền vững là yêu cầu sống còn đối với Tây Nguyên
* Hơn
ở bất cứ nơi nào khác, phát triển bền vững là yêu cầu sống còn đối với Tây
Nguyên.
Không
thể nhìn và xử trí đối với Tây Nguyên tách rời với tất cả các vùng xung quanh
và với cả nước.
Tây
Nguyên là mái nhà của toàn bộ nam Đông Dương, chi phối có tính quyết định về
nhiều mặt đối với toàn bộ khu vực rộng lớn này, ảnh hưởng nặng nề và sâu sắc
đến sự an toàn về khí hậu, môi trường, sinh thái… cho đến ổn định xã hội ở toàn
vùng này.
Xây
dựng Tây Nguyên thành một trong những vùng trọng điểm kinh tế là đúng, nhưng
không thể phát triển kinh tế ở Tây Nguyên với bất cứ giá nào. Tây Nguyên có
nhiều tiềm năng về cây công nghiệp, đặc biệt là cây cao su và cà phê, nhưng
tiềm năng đó không phải là vô tận. Cho đến nay, Tây Nguyên đã bị khai thác quá
mức. Ngay bây giờ, tác hại của việc mất gần hết rừng Tây Nguyên đã khá rõ rệt.
Chắc chắn trong những thiên tai lũ lụt ngày càng lớn, càng dữ, càng dày ở vùng
Nam Trung Bộ, Đông và Tây Nam Bộ có phần nguyên nhân quan trọng từ rừng Tây
Nguyên bị tàn phá đến kinh hoàng. Một số dự án lớn đang tiếp tục đe dọa nghiêm
trọng Tây Nguyên, như dự án khai thác bauxit ở các tỉnh Đắc Nông, Lâm Đồng,
Kontum từ nay đến năm 2025, chắc chắn sẽ vĩnh viễn bóc sạch và san phẳng rừng ở
nhiều vùng rộng lớn thuộc các tỉnh này; chúng ta sẽ chỉ còn một vùng đất nham
nhở và khô cằn ngay trên đầu nguồn nhiều con sông quan trọng của Nam Trung Bộ
và Nam Bộ, kể cả sông Sài Gòn. Về lâu dài, nguy cơ Tây Nguyên bị đá ong hoá, sa
mạc hoá là viễn cảnh thực tế, hầu như không thể tránh nếu cứ tiếp tục đà này,
và sẽ là tai họa khó lường cho cả vùng nam Đông Dương rộng lớn.
Thật
sự có một câu hỏi lớn cần trả lời: ở Tây Nguyên giữa phát triển và bảo tồn, bên
nào nên trọng bên nào nên khinh? Nếu phát triển ở Tây Nguyên mà không coi trọng
bảo tồn, thậm chí lấy bảo tồn làm chính, thì sẽ không xa lắm khi đến một lúc
không còn gì để phát triển nữa. Tiềm năng về nhiều mặt của Tây Nguyên là lớn,
nhưng tiềm năng ấy không vô tận. Lại cũng không thể tính toán các kế họach phát
triển ở Tây Nguyên tách rời các mối quan hệ hữu cơ có tính quyết định của Tây
Nguyên đối với các vùng chung quanh. Một ví dụ rất cụ thể: cách đây 30 năm
trong chương trình hợp tác với khối SEV, đã có kế hoạch khai thác quặng bauxit
có trữ lượng khá lớn và chế biến nhôm ở Tây Nguyên, nhưng sau một thời gian
khảo sát chính các chuyên gia Liên Xô, Hungari, Ba Lan… đã khuyên cáo không nên
làm nữa, vì sẽ gây tàn phá lớn đối với môi trường ở Tây Nguyên và ảnh hưởng
nghiêm trọng đến môi trường ở Nam Trung Bộ. Đến nay dự án khai thác bauxit mấy chục
năm trước lại đang được vực dậy. Với kế hoạch to lớn này, chắc chắn chúng ta sẽ
hoàn thành việc phá tan môi trường Tây Nguyên và hủy hoại cả môi trường không
chỉ Nam Trung Bộ mà cả một khu vực không nhỏ ở Nam Bộ. Kế hoạch gọi là hoàn
thổ, trồng lại rừng trên vùng rừng đã bị phá sạch và bóc lên để khai thác quặng
bauxit… của các nhà đầu tư chỉ là một thứ lý thuyết suông, nói cho qua chuyện,
cho được việc, nhắm mắt lại mà làm, hết sức vô trách nhiệm, và chắc chắn sẽ để
lại hậu quả đến mức thảm họa cho tận mai sau.
Giữ
gìn môi trường Tây Nguyên là vì chính lợi ích của phát triển không chỉ của Tây
Nguyên hôm nay, và mai sau.
*
Tây Nguyên là vùng đặc biệt nhạy cảm về mặt dân tộc. Như đã thấy ở trên, những
điều kiện đặc thù của Tây Nguyên về địa lý, lịch sử đã khiến Tây Nguyên có
nhiều điểm khác với các vùng dân tộc khác trong cả nước. Những nghiên cứu về
các đặc điểm này cho đến nay không ít, nhưng quả thật đã không hề được quan tâm
trong khi hoạch định các chủ trương, chính sách từ lớn đến nhỏ đối với Tây Nguyên.
Chúng ta thật sự đã hành động ở Tây Nguyên giống hệt như ở bất cứ vùng nào khác
trong cả nước, chẳng hề khác chút nào với ở các vùng người Việt, và điều đó đã
để lại những hậu quả nặng nề. Đến nay cách hành xử này cũng chưa có thay đổi gì
đáng kể. Trong nhiều dự án lớn đang và dự tính triển khai ở Tây Nguyên, như dự
án gọi là “Thiên đường cà phê”, dự án khai thác bauxit…, rất đáng kinh ngạc là
hầu như không hề thấy tính đến mặt xã hội, không hề chú ý đến việc Tây Nguyên
là một vùng dân tộc rất đặc thù, đặc biệt không hề quan tâm đến những chủ nhân
lâu đời là các dân tộc bản địa Tây Nguyên, truyền thống lịch sử và văn hoá của
họ, lợi ích của họ, việc họ chấp nhận các dự án đó như thế nào, chúng sẽ ảnh
hưởng tích cực, tiêu cực đến họ ra sao. Không hề thấy có dự án nào đưa người
dân tộc bản địa tham gia như một chủ thể quan trọng của dự án. Họ hầu như hoàn
toàn bị gạt ra ngoài, may lắm cũng chỉ có thể trở thành những người làm thuê
khốn khổ cho những chủ nhân mới. Chắc chắn những dự án như vậy khó lòng thành
công, nếu không nói rất có thể đến một lúc nào đó chúng sẽ bị chính những chủ
nhân lâu đời của vùng đất này phản ứng, chống lại và huỷ hoại.
Như
vậy không chỉ môi trường tự nhiên mà cả môi trường xã hội, cụ thể là vấn đề dân
tộc, là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự phát triển bền vững ở Tây
Nguyên.
*
Về lâu dài hơn, cũng không thể không tính đến sự biến đổi khí hậu toàn cầu đến
nay không còn là dự báo mà đã là một thực tế, với mực nước biển dâng cao và
Việt Nam sẽ là một trong những nước bị ảnh hưởng nặng nhất, sẽ mất nhiều vùng
đồng bằng quan trọng. Trong điều kiện đó, Tây Nguyên sẽ là vùng đất dự trữ cho
cả nước. Đây cũng là một tham số quan trọng trong các bài toán lớn nhỏ về Tây
Nguyên hiện nay và sắp đến.
B.
Đất, Rừng và vấn đề dân tộc ở Tây Nguyên
Như
đã thấy, vấn đề dân tộc ở Tây Nguyên liên quan chặt chẽ với vấn đề đất đai (ở
đây tức là rừng), và làng, quyền sở hữu tập thể của cộng đồng làng đối với đất
và rừng. Làng bị vỡ do mất đi nền tảng là quyền sở hữu ấy, tất xã hội sẽ rối
loạn. Vấn đề đất và rừng, và trên nền tảng đó sự tan rã của làng, đã trở thành
vấn đề dân tộc, và trên một vùng đất có nhiều đặc trưng về nhiều mặt như thế
này, nếu vấn đề dân tộc không yên thì không thể có ổn định xã hội. Mầm mống mất
ổn định nhất định sẽ âm ỉ lâu dài, và có thể bùng nổ bất cứ lúc nào. Vì vậy,
muốn khôi phục ổn định ở đây, nhất thiết phải tìm mọi cách trả lại đất và rừng
cho làng, khôi phục lại làng. Xã hội chỉ có thể ổn định khi tế bào cơ bản của
nó là làng ổn định. Tình hình hiện nay đã trở nên hết sức phức tạp do sự xáo
trộn tự chúng ta gây ra suốt hơn 30 năm qua.
Có
một hiện tượng có thể rất đáng chú ý, nhưng lại không được các cơ quan làm
chính sách, kể cả Ban Chỉ đạo Tây Nguyên hiện nay quan tâm: Kontum hiện là tỉnh
có tỷ lệ phát triển đạo Tin lành vào loại cao nhất trên Tây Nguyên, nhưng lại
là tỉnh có tình hình xã hội tương đối ổn định, trong mấy cuộc bạo loạn vừa qua
không có vấn đề gì lớn. Vì sao? Rất có thể chính vì ở Kontum người dân tộc bản
địa còn đến trên 50 % trong dân số, việc người dân tộc bản địa mất đất vào tay
người nơi khác đến không nghiêm trọng bằng các nơi khác, mâu thuẫn dân tộc chưa
quá nặng nề. Rừng ở đây cũng vào loại còn khá nhất, một số khu rừng nguyên sinh
rộng lớn còn được giữ khá tốt. Làng chưa bị tan rã hoàn toàn. Phải chăng đây là
một bài học thực tế rất đáng để suy nghĩ.
Vậy
nên bằng mọi cách trả lại rừng cho làng, để khôi phục lại làng, trước mắt và
lâu dài, là con đường duy nhất để dần đi đến ổn định tình hình và phát triển ở
đây. Có thể có những câu hỏi :
Làng
có còn để được trả lại đất và rừng không? Lấy đất, rừng ở đâu để trả lại cho
làng? Và bằng cách nào? Tây Nguyên đương nhiên cũng không thể đứng ngoài sự
phát triển chung trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của cả nước,
vậy trong quá trình đó làng sẽ biến đổi như thế nào, xã hội này sẽ biến đổi như
thế nào?
Quả
thực đây là những câu hỏi rất khó, vừa do những sai lầm kéo dài của chúng ta,
vừa do sự thúc đẩy của phát triển tất yếu ngày nay. Giải quyết tình hình Tây
Nguyên hiện nay, theo chúng tôi, cần một sự nghiên cứu vừa cơ bản vừa cấp bách,
một quyết tâm và tận tuỵ rất lớn, thậm chí còn khó hơn cả những thời kỳ khó
khăn, ác liệt nhất trong chiến tranh trước đây. Không thể có một giải pháp
chung, đơn giản, tức thì. Tuy nhiên, có thể có một số điểm chung và cơ bản cần
khẳng định:
Một
là, bất chấp tất cả, làng vẫn còn, thực thể làng vẫn còn. Ở những vùng như miền
núi các tỉnh Nam Trung Bộ và Đông Nam Bộ, hoặc một số vùng ở Kontum, do địa
hình tương đối hiểm trở, người Kinh đổ lên trong những năm qua không quá nhiều,
làng của người dân tộc bản địa còn khá nguyên vẹn. Ở những vùng khác, dầu cơ
cấu của làng đã trở nên phức tạp hơn nhiều, trộn lẫn người nhiều dân tộc khác
nhau trong một làng, nhưng thực thể làng bản địa tuy âm thầm mà vẫn còn, bằng chứng
chính là dấu hiệu bộc lộ trong một số cuộc biểu tình vừa qua : người ta đi biểu
tình từng làng (người bản địa) chứ không bao giờ đi xé lẻ. Tức thực thể cộng
đồng làng vẫn sống một cách thật mạnh mẽ, tuy buộc phải âm thầm. Vậy vẫn còn
làng để cho chúng ta trả lại đất và rừng, khôi phục lại tế bào cơ bản này của
xã hội.
Ở
Tây Nguyên hiện nay đất đai đã vào tay người Kinh rất nhiều, không thể động đến
phần đất này, sẽ có thể gây ra rối loạn khác. Tuy nhiên đến nay vẫn còn 40% đất
và rừng trong tay các nông trường, lâm trường quốc doanh, những nông, lâm
trường này phần lớn làm ăn không hiệu quả, liên tục thua lỗ, cũng không giữ
được rừng. Vậy tức là còn đất và rừng có thể lấy lại để trả cho các làng.
Trả
cụ thể như thế nào, đương nhiên không thể có một cách thức chung, phải dựa vào
dân trong từng trường hợp cụ thể mà giải quyết. Kinh nghiệm ở miền núi Quảng
Nam cho thấy khi người dân đã biết và tin ở chủ trương trả lại đất và rừng cho
làng thì họ sẽ chủ động nghĩ ra và bày cho ta giải pháp thích hợp nhất trong
từng trường hợp cụ thể, kể cả cách thức quản lý rừng và làng sau khi rừng được
trả. Vấn đề cốt yếu ở đây là thật sự trao lại quyền tự chủ cho người bản địa,
không ai có thể hiểu tình hình cụ thể và biết cách gỡ rối cụ thể hơn họ.
Về
việc trả rừng cho làng có hai điều cần chú ý:
Lâu
nay vẫn có việc gọi là “giao rừng cho dân”, dân được giao giữ rừng, 1 hecta
rừng mỗi năm trước đây được trả 50.000 đồng, nay là 100.000 đồng, nhưng đấy là
nhà nước thuê dân giữ rừng cho nhà nước, chứ không thật sự là trả quyền làm chủ
rừng cho dân, chính do đó mà rừng vẫn mất. Người ta chỉ giữ đến cùng cái gì
thật sự là của người ta. Trả rừng phải là trả quyền sở hữu thật sự và toàn vẹn
của tập thể cộng cồng làng đối với đất và rừng.
Thứ
hai: không gian sinh tồn của làng ở Tây Nguyên, như đã nói, gồm ít nhất cả bốn
loại rừng: rừng đã biến thành đất thổ cư, rừng làm rẫy, rừng sinh hoạt và rừng
thiêng, không có đủ bốn loại rừng ấy thì làng không thể tồn tại như một đơn vị
xã hội hoàn chỉnh. Giao cho làng Tây Nguyên chỉ một miếng đất để ở và một
khoảnh đất để làm một cái rẫy thì chẳng nghĩa lý gì cả, làng sẽ cằn cỗi và
chết.
Ở
Quảng Nam trong một số năm qua đã thí điểm trả rừng cho làng. Rừng được trả
triệt để, gồm đủ các loại rừng theo truyền thống, và trở thành tài sản thực sự của
làng: kiểm lâm chỉ quản lý rừng về mặt sinh thái, quyết định cây nào đến đúng
tuổi nào mới được chặt, nhưng chặt hay không, chặt cây nào là quyền của làng.
Nhà nước muốn lấy một cây trong rừng thì phải hỏi mua của làng và được làng
đồng ý, thuận mua vừa bán. Làng được quản lý theo một hương ước được thoả thuận
giữa chính quyền, tổ chức Đảng và Hội đồng Già làng. Kết quả đầu tiên sau 2 năm
thí điểm: làng đã giữ được rừng nguyên vẹn, tuyệt đối không mất một cây gỗ nào,
điều tất cả các chủ sở hữu trước đây (quân đội, nông trường, lâm trường, kiểm
lâm…) đều bất lực. Vấn đề tiếp theo hiện nay là phải xác định được quy chế
hưởng lợi của người dân làng đối với rừng đã được giao trả; và dân làng sẽ làm
ăn khá giả lên như thế nào trên tài sản rừng nay đã thuộc về mình. Xa hơn nữa
là vấn đề Tây Nguyên, cơ cấu xã hội của nó, làng Tây Nguyên, đất và rừng Tây
Nguyên, con người Tây Nguyên… sẽ chuyển động như thế nào trong chuyển động
chung của cả nước trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay? Tất
nhiên đấy còn là những bài toán rất khó, song có một nguyên tắc: chính chủ thể
con người Tây Nguyên sẽ tự mình tìm ra lời giải cho những bài toán ấy trong
thực tế, chứ không phải những tổ chức áp đặt từ bên ngoài vào có thể “sáng
suốt” nghĩ thay, làm thay.
Vấn
đề dân tộc ở Tây Nguyên, cũng như ở nhiều dân tộc khác trong cả nước trước nay,
theo một cách nào đó chính là vấn đề thực sự tôn trọng các dân tộc bản địa,
chống lại tư tưởng dân tộc lớn dưới mọi hình thức từ thô lỗ đến tinh vi, thực
sự tin và kiên quyết trao quyền tự chủ cho người bản địa, trao quyền làm chủ,
tôn trọng và tin tưởng ở sức sống và sức tự chủ, sức tự phát triển của xã hội
và con người ở đây. Được trả lại quyền tự chủ thật sự – cụ thể là quyền sở hữu
đất đai theo truyền thống – xã hội Tây Nguyên sẽ tự minh tìm được con đường,
dẫu còn rất khó nhọc, cùng cả nước đi lên trong công cuộc phát triển chung. Mọi
toan tính kiểu khác đều tất yếu thất bại, như thực tế mấy chục năm qua đã chứng
minh.
C.
Một tầng lớp trí thức mới cho Tây Nguyên
Như
đã thấy ở trên, trong suốt lịch sử lâu dài, xã hội Tây Nguyên đã được quản lý,
điều hành hiệu quả, tồn tại và phát triển bền vững trải qua bao nhiêu thách
thức lớn nhỏ bằng một cơ chế truyền thống độc đáo, xem ra là “thông minh” nhất
trong điều kiện đặc trưng về nhiều mặt của vùng đất và người này. Trong cơ chế
quản lý và điều hành đó nổi bật lên vai trò của già làng. Một trong những sai
lầm quan trọng và tai hại nhất của ta trong thời gian qua là chúng ta đã không
nghiên cứu, thấu hiểu, tôn trọng, tận dụng, đề cao lực lượng có ý nghĩa quyết
định này, thậm chí còn muốn xoá bỏ, không công nhận, hạn chế uy tín và vai trò
của họ… Gần đây, sau một số biến động, giật mình nhìn lại, mới có một số hoạt
động nhằm tỏ ra tôn trọng, đề cao các già làng: mời ra trung ương gặp các vị
lãnh đạo này nọ… Những việc ấy cũng là cần, và cũng có tác dụng nhất định.
Nhưng có chỗ cần suy nghĩ: những già làng này hiện nay còn thật sự có vai trò,
vị trí dẫn dắt cộng đồng như trước đây không? Nhất là trong tình hình hiện nay
và trong phát triển tất yếu của Tây Nguyên sắp tới? Vậy nên cần nghiên cứu kỹ
già làng ở Tây Nguyên thực chất là ai? Vì sao họ có thể có vai trò lớn như đã
thấy?
Như
đã nói ở phần trên, già làng chính là những người có tri thức toàn diện nhất,
uyên bác nhất, tích tụ được nhiều kinh nghiệm nhất trong đời sống giữa một
thiên nhiên vừa bao dung vừa khắc nghiệt, giữa một xã hội vừa hài hòa vừa gay
gắt là xã hội Tây Nguyên trải qua các chuyển biến lịch sử, lại là những người
có đức độ cao, là những bậc hiền triết của làng. Người Pháp dịch “Hội đồng già
làng” là “Conseil des sages”, Hội đồng của các bậc hiền nhân. Cũng cần chú ý,
gọi là già làng nhưng già làng không nhất thiết là người cao tuổi nhất trong
làng. Ông Núp ở làng S’tơr, ông Mết ở làng Xóp Dùi, rất nổi tiếng, nhưng khi
làm già làng cũng chỉ khoảng 30 tuổi. Tuổi tác không phải là tiêu chuẩn chính.
Theo ngôn ngữ ngày nay, có thể gọi đó là những bậc trí thức của làng. Xã hội
Tây Nguyên trong suốt lịch sử lâu dài đã được quản lý, điều hành hết sức hiệu
quả bởi một tầng lớp trí thức độc đáo như vậy. Lớp “trí thức” đó, trong biến
chuyển và đi tới của xã hội Tây Nguyên hôm nay vẫn còn có uy tín và sức tập họp
nhất định, nhưng không còn đủ sức ứng phó với những thách thức mới. Vậy phải
chăng có vấn đề : cần thiết đào tạo một tầng lớp trí thức mới để dắt dẫn xã hội
này trong công cuộc phát triển mới hiện nay và tương lai?
Có
thể đào tạo được một tầng lớp trí thức bản địa như thế không? Có hiện tượng
nhiều nhà giáo ở Tây Nguyên, qua kinh nghiệm thực tế của họ, cho rằng học sinh
người dân tộc bản địa chỉ có thể học khá đến khoảng cấp 2, lên đến cấp 3 thì
đuối. Có đúng thế không? Chúng tôi không cho là như vậy, vấn đề có thể là ở sự
cứng nhắc, giáo điều trong chương trình và cách dạy của chúng ta, không khai
thác và phát huy đúng cách những thế mạnh của học sinh dân tộc bản địa. Vừa qua
có một ví dụ cụ thể rất sinh động và thuyết phục: Cách đây vài năm, Viện Văn
hoá Dân gian (nay là Viện Văn hoá) thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam đã mở
một lớp thạc sĩ về văn hoá và dân tộc học cho 12 sinh viên cao học toàn người
dân tộc bản địa Tây Nguyên, Ba Na, Ê Đê, Xơ Đăng, Mơ Nông, Hơ Re, Kơ Ho, Mạ
v.v. Kết quả thật tuyệt: cả 12 người đều đạt xuất sắc, có người như chị Phạm
Thị Trung, người Xteng, một nhánh nhỏ của dân tộc Xơ Đăng đã trình một luận văn
tuyệt vời thậm chí rất hiếm được thấy ở một sinh viên cao học người Kinh. Trong
quá trình học và làm luận văn, các sinh viên này đã phải tiếp xúc với các tác
phẩm kinh điển của các nhà nhân học, dân tộc học hàng đầu thế giới, những C.
Lévy-Strauss, E. Durkheim, A. van Ghenep, R. Tylor. G. Condominas, J. Dournes…,
qua bản dịch và qua cả nguyên bản, họ đã tỏ rõ khả năng nắm vững các trí thức
bác học cao nhất từng có, lại liên hệ vận dụng rất nhuần nhuyễn và sáng tạo vào
thực tiễn xã hội của dân tộc mình, cả trong quá khứ và trong thách thức hiện
tại, mà chắc chắn không ai hiểu sâu sắc được bằng họ… Rõ ràng có thể đào tạo
một tầng lớp trí thức mới như vậy cho Tây Nguyên, nếu chúng ta có nhận thức
đúng, có sự tận tụy, quyết tâm và kiên trì. Vai trò của cán bộ người Kinh, ở
bất cứ cấp nào tại Tây Nguyên hiện nay không phải là làm thay, cũng không phải
“cầm tay chỉ việc” như thường được nghe nói, mà là giúp tổ chức công việc đào
tạo đó, cấp bách trước mắt, và lâu dài, một công việc có tính cách cơ bản và
chiến lược. Phải tạo ra cho được một tầng lớp “già làng” kiểu mới của Tây
Nguyên, và không cách nào khác, thực sự trao quyền giải đáp những bài toán lớn
nhỏ của sự phát triển Tây Nguyên hiện nay vào tay họ. Đó là con đường duy nhất.
D.
Tổ chức nghiên cứu Tây Nguyên
Tất
cả tình hình vừa qua chứng tỏ một vùng dân tộc đặc biệt như Tây Nguyên đòi hỏi
một sự nghiên cứu có tính khoa học rất nghiêm túc, chặt chẽ, lâu dài, vừa cơ
bản vừa cập nhật, để làm cơ sở cho mọi chủ trương, chính sách và việc làm lớn
nhỏ của chúng ta ở đây. Quả thật chúng ta chưa triển khai được một công tác
nghiên cứu như vậy, và một số công trình nghiên cứu của một số nhóm hoặc cá
nhân các nhà nghiên cứu đã có, với những cố gắng đáng trân trọng, thì lại bị bỏ
qua, hầu như hoàn toàn không được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền và có
trách trách nhiệm quan tâm, vận dụng. Có thể nói một cách không quá đáng, suốt
hơn 30 năm qua – cũng chính là thời gian chúng ta triển khai những chủ trương
chiến lược lớn trên vùng đất này – mọi việc làm của chúng ta đều khá tuỳ tiện,
vội vã, dựa trên những cảm nhận bên ngoài hời hợt, chủ quan, kể cả khi tình
hình đã trở nên rất bất ổn thì những ứng phó cũng là chắp vá, áp đặt, không
thật sự tính đến những hệ quả lâu dài, không chịu quay lại tìm hiểu những
nguyên nhân sâu xa, không thèm nghe ý kiến tâm huyết của các chuyên gia. Những
ứng phó như vậy có khi còn làm cho tình hình dẫu có thể tạm ổn trước mắt, trên
bề mặt, nhưng về lâu dài, trong chiều sâu, lại càng xấu hơn, nặng nề, nguy hiểm
hơn. Một số chủ trương mới rất lớn (chẳng hạn việc tận khai bauxit ở Đắc Nông
và nhiều vùng khác tại Tây Nguyên) có thể mang tính chất phiêu lưu lớn, hậu quả
về nhiều mặt thật khó lường…
Công
tác tổ chức nghiên cứu cơ bản về Tây Nguyên do vậy là cấp bách.
Hiện
nay và về lâu dài cần:
Thứ
nhất: Tập họp các nghiên cứu của các nhà khoa học, các tổ chức trong nước đã có
từ trước đến nay, trong đó rất cần chú ý đến một số nghiên cứu có giá trị và
khá nghiêm túc của các tác giả miền Nam trong các thời kỳ (như các nghiên cứu
của Toan Ánh, Nghiêm Thẫm…).
Thứ
hai: Tổ chức dịch các công trình nghiên cứu của người Pháp về Tây Nguyên. Cho
đến nay, những nghiên cứu tốt nhất, cơ bản, tương đối toàn diện, đồng thời
chuyên biệt, chi tiết, sâu sắc nhất về Tây Nguyên là của các tác giả Pháp, bao
gồm từ các nhà thám hiểm đầu tiên, đến các nhà truyền giáo, các nhà cai trị và
các nhà khoa học. Các công trình này hoặc đã được in thành sách, hoặc còn nằm
rải rác trong các tạp chí khoa học (như tạp chí BEFEO của Viện Viễn Đông Bác cổ
Pháp – đã được đưa lên mạng, tạp chí BAVH của Tổ chức Những người bạn của cố đô
Huế…). Cần có một tổ chức chuyên tập họp và chăm lo việc biên dịch thành một tủ
sách chuyên đề về Tây Nguyên, có thể đặt chẳng hạn tại một Trung tâm nghiên cứu
ở một trường Đại học thuộc khu vực Miền Trung hay Tây Nguyên (có thể nên là ở
Miền Trung vì nghiên cứu Tây Nguyên không thể tách khỏi nghiên cứu liên quan
đến vùng duyên hải).
Người
Mỹ chưa triển khai nghiên cứu được bao nhiêu về Tây Nguyên, ngoài vài tác phẩm
của Hickey, chủ yếu tập họp, cô động các công trình đã có của Pháp, có bổ sung
thêm một số dữ liệu mới thời chiến tranh sau này. Cũng nên tổ chức dịch để tham
khảo.
Thứ
ba: Cần có một tổ chức nghiên cứu toàn diện và cơ bản song song với nghiên cứu
những vấn đề cụ thể, cấp thời về Tây Nguyên, có thể thành một Viện Nghiên cứu
Tây Nguyên thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam. Viện này sẽ là trung tâm nối
liền các tổ chức nghiên cứu đã nói ở điều thứ nhất và thứ hai.
Thứ
tư : Cần có ngay một bộ phận tư vấn khoa học bên cạnh Ban Chỉ đạo Tây Nguyên
hiện nay, gồm các chuyên gia về Tây Nguyên, đặc biệt các chuyên gia là người
dân tộc bản địa, không phải là không có và lâu nay chưa hề được dùng.
***
Vấn
đề Tây Nguyên về nhiều phương diện là một vấn đề lớn lại có những đặc trưng
riêng trong sự phát triển chung của cả nước. Vấn đề này vốn đã không hề đơn
giản, nay đã càng trở nên hết sức phức tạp, khó khăn, có thể còn khó khăn lâu
dài, với những diễn biến cũng có thể còn chưa lường được hết và còn bất ngờ.
Song vấn đề cũng có thể trở nên đơn giản hơn, vẫn có thể có lối ra, nếu ta dám
thật sự nhìn lại tình hình một cách khách quan, nhận ra sai lầm lớn lẽ ra hoàn
toàn có thể không mắc phải nếu biết tôn trọng thực tế và biết lắng nghe, từ đó
nghiêm túc xác định lại quan điểm đúng, để có cách nhìn và cách hành xử thích
hợp, đặc biệt biết thật sự tôn trọng các dân tộc bản địa Tây Nguyên, một bộ
phận tuy có đến chậm hơn nhưng từng gắn bó rất sâu sắc, có đóng góp hết sức to
lớn trong tiến trình lịch sử gian nan mấy thế kỷ qua của cộng đồng các dân tộc
Việt Nam. Ở Tây Nguyên nếu không thật sự đặt quyền lợi của các dân tộc bản địa
lên trên hết, là mục tiêu hàng đầu của mọi kế hoạch phát triển, thì chắc chắn
không việc gì có thể thành công, sẽ thất bại tất yếu, thậm chí có thể đi đến
thảm hoạ.
Nhà
Tây Nguyên học xuất sắc Jacques Dournes có một câu bất hủ khi nói về Tây
Nguyên, ông viết: “Nếu phải hiểu để mà có thể yêu, thì lại phải yêu để mà có
thể hiểu”. Đối với Tây Nguyên, cần một sự hiểu biết và một tình yêu đầy sự tôn
trọng thật sự, một sự tôn kính chân thành và đấy ưu tư đối với một vùng đất và
một vùng văn hoá vào loại độc đáo nhất còn lại trên đất nước ta và trên thế
giới ngày nay.
Cần
có một tình yêu đầy tôn trọng như vậy, để ra sức tìm hiểu sâu sắc vùng đất và
người hết sức quan trọng và vô cùng đặc sắc này, từ đó mà có chủ trương và hành
động đúng, mới mong có thể thoát ra khỏi bế tắc hiện tại, đưa Tây Nguyên vững
chắc vào tiến trình phát triển chung của đất nước, vì Tây Nguyên, và vì cả
nước.
Nguyên Ngọc