Thánh Matthêu Lê Văn Gẫm,
thương gia
Liều
thân vì đại nghĩa
Năm
1844, theo lời yêu cầu của Đức cha Cuénot Thể, Đức Giáo hoàng Grêgôriô XVI chia
Giáo phận Đàng Trong thành hai giáo phận: Giáo phận Đông gồm các tỉnh miền
Trung, và Giáo phận Tây gồm các tỉnh Miền Nam và Campuchia. Giáo phận tây được
giao cho Đức cha Lefèbvre Nghĩa, khi đó đã bị trục xuất và đang ở Singapore.
Phải đưa Đức cha về giáo phận, đó là điều mong ước của toàn thể tín hữu và hàng
giáo sĩ ở Việt Nam. Thánh Matthêu Gẫm đã đứng ra đảm nhiệm công tác này, dù đã
lường trước được những nguy hiểm đến tính mạng. Và thực tế, ngài đã bị bắt và
đã hy sinh vì sứ mạng này. Tấm gương sáng ngời của thánh nhân sẽ muôn đời sống
mãi trong lòng các tín hữu Việt Nam yêu mến Giáo Hội mình.
Người
gia trưởng gương mẫu
Matthêu
Lê Văn Gẫm chào đời năm 1813 thời vua Gia Long, tại họ Tắt, thuộc làng Long
Đại, xứ Gò Công, tỉnh Biên Hoà (nay thuộc quận 9, TP.HCM). Là con đầu lòng
trong một gia đình năm anh em trai và một em gái út, Matthêu Gẫm đã thừa hưởng
nơi thân phụ, ông Phaolô Lê Văn Lại và thân mẫu, bà Maria Nguyễn Thị Nhiệm, một
truyền thống đạo đức thâm sâu.
Năm
15 tuổi, cậu Gẫm xin phép cha mẹ gia nhập Chủng viện Lái Thiêu để tu học linh
mục. Nhưng chỉ một tháng sau, song thân đã đến xin cậu về. Vì là anh cả một đàn
em nhỏ dại, cậu đã vâng lời cha mẹ về phụ giúp gia đình lao động kiếm sống. Và
Chúa đã hướng dẫn cậu theo lối khác. Khoảng 20 tuổi, chàng thanh niên vạm vỡ ấy
kết hôn với một thiếu nữ thuộc họ Thành, làng Long Điền, Bà Rịa (Nay thuộc
huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai). Hai vợ chồng sống với nhau rất êm ấm thuận
hòa và sinh dạ được bốn người con.
Trong
nghề thương mại thường phải xa nhà, một lần kia Matthêu Gẫm sa ngã, theo đuổi
mọât thiếu nữ khác. Nhưng khi nghĩ lại, ông cương quyết từ bỏ mối tình ngang
trái. Để bù lại, ông tỏ ra yêu vợ nhiều hơn, và chú tâm vào việc giáo dục con
cái, nhất là về đời sống đạo đức. Trong bốn người con thì con trưởng và con út
qua đời vì bệnh, người thứ hai ra cản việc đốt Nhà thờ Cầu Ngang nên bị giết,
còn người thứ ba bị bắt vì đạo và chết thiêu trong khám đường cùng với nhiều
người khác tại Bà Rịa ngày 07.01.1862. Hai người con sẵn sàng chết vì đức tin,
quả là bằng chứng rõ rệt về đường lối giáo dục đức tin của ông.
Người
thương gia quảng đại
Vì
có thuyền riêng và rành nghề sông biển, công việc buôn bán của ông Matthêu Gẫm càng
ngày càng phát đạt. Ông quảng đại giúp đỡ các giáo sĩ, và được các thừa sai tín
nhiệm. Trong chương trình của cha Lợi, quản lý nhà chung Bà Rịa thì thỉnh
thoảng ông lại làm một chuyến qua Hạ Châu (Singgapore) hay Pénang (Mã Lai) để
đón các thừa sai và các chửng sinh Việt Nam du học về nước, hoặc chuyển các đồ
thờ tự và sách báo đạo. Một số chuyến đi về êm xuôi, nhưng rồi công việc bại
lộ, và các quan địa phương để ý theo dõi ông rất gắt.
Năm
1846, vì nhu cầu của giáo phận, ông nhận lời với cha Lợi sang Singapore đón Đức
cha Đaminh Lefèbvre Nghĩa, Cha Duclos Lộ và 3 chủng sinh về Sài Gòn. Như có
linh cảm chuyến này khó thoát, nên ông đến từ giã cha mẹ nội ngoại, dặn dò vợ
con kỹ càng ước vọng của mình rồi lên đường. Chuyến đi được êm xuôi. Ngày
23.05, thuyền nhổ neo quay về thì gặp bão tố, và mất thêm 4 ngày trốn chạy một
tàu cướp biển, nên ông chễ hẹn. Ngày 06.06, ông Gẫm mới vào đến cửa Cần Giờ,
ông trùm Huy họ Chợ Quán đã chờ ở đó sáu ngày để chuyển người mà không gặp, nên
đã chở về nhà.
Vì
biết mình là đối tượng bị theo dõi, ông Gẫm đã cẩn thận neo thuyền chờ thêm hai
ngày, đến khi không thấy ai ra đón, mới quyết định đánh liều đi sâu vào Sài
Gòn. Vừa thoát qua một đồn canh, ông gặp một chiếc thuyền tuần tiễu, ông nhanh
trí hối lộ cho họ 10 nén bạc để thoát thân. Năm người lính trên thuyền này, sau
một hồi tranh luận, sợ chuyện bị bại lộ, nên quay thuyền lại và rượt theo để
trả tiền rồi bắt thuyền ông. Ông Gẫm kêu gọi các anh em trên thuyền hợp lực,
định chống trả, nhưng Đức cha Nghĩa không đồng ý, vì cho rằng trái với tinh
thân nhân hậu của Kitô giáo.
Khổ
giá và vinh quang
Sáng
ngày 08.06.1846, với sự yểm trợ của một số lính trên thuyền khác mới tới, quan
lính nhà vua áp tải thuyền ông Gẫm về Bến Nghé. Đức cha Nghĩa và cha Lộ bị giam
ở Công Quán. Cha Lộ qua đời trong tù ngày 17.07.1846, còn vị Giám mục thì được
giải ra kinh đô Phú Xuân. Tại đây vua Thiệu Trị lên án xử trảm, sau đổi thành
án trục xuất về Singapour, sau ngài lại tìm cách vào Việt Nam. Ông Matthêu Gẫm
tự nhận là người chủ mưu nên bị biệt giam ở Sài Gòn.
Vài
ngày sau, các quan đưa ông ra toà lấy khẩu cung và kêu gọi quá khóa. Dù bị đòn
đánh đau đớn, ông Gẫm vẫn hiên ngang chịu đựng, không khai một ai, cũng không
chịu bước qua Thánh Giá. Trước toà, ông khai tên là Lê Văn Bửu, còn bản án lại
ghi tên Lê Văn Bối. Sau 20 ngày, các quan làm án gửi về kinh đô xin xử chém,
nhưng nhà vua chần chừ đến năm sau mới quyết định.
Trong
thời gian chờ vua phê án, ông Gẫm phải mang gông xiềng nặng nề, nhưng lúc nào
cũng giữ được bình tĩnh vui vẻ. Ông nói: “Tôi có ăn trộm ăn cướp gì đâu mà sợ,
mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm”. Cha Thán ba lần cải trang vào thăm
giải tội và trao Mình Thánh. Cha Phan Văn Minh (tử đạo ngày 03.07.1853) cũng
vào thăm và khích lệ. Các tín hữu Chợ Quán, Thị Nghè, An Nhơn và họ Lăng (Chí Hoà)
cũng rủ nhau đến thăm viếng người anh hùng của giáo phận. Thân phụ ông Gẫm và
người em, ông đội Phaolô Bằng, vì liên hệ gia đình cũng bị bắt giam tại Biên Hoà.
Thân mẫu ông và các em khác trốn tránh quanh vùng Thủ Đức cũng vào ngục thăm
ông một vài lần.
Sau
bảy tháng ông Gẫm bị giam, bản án được vua Thiệu Trị châu phê, nhưng vì trùng
vào dịp cuối năm, vua ra lệnh dời qua tết mới thi hành. Sau tết, một vài viên
quan ở trấn Gia Định có cảm tình với người thương gia hiền lành, viện cớ chính
vị giám mục cũng không bị xử tử, làm đơn xin vua giảm án của ông Gẫm thành án
lưu đày chung thân. Nhưng tháng 03.1847, khi quân đội triều đình giao tranh và
thua quân Pháp ở Đà Nẵng, nhà vua quyết định không ân xá gì nữa.
Ngày
11.05.1847, ông Lê Văn Gẫm được đưa đến pháp trường “Da Còm”, tên một cây đa
tróc gốc cằn cỗi ở đó (nay là xứ Chợ Đũi, khi đó còn thuộc xứ Chợ Quán), các vị
tín hữu và lương dân hiện diện rất đông. Ba người em của vị anh hùng đức tin,
là Tôma Trọng, Phaolô Bằng và Anrê Nguyện, cũng có mặt trong cuộc xử anh mình.
Ông đội Bằng và ông Trùm Phước phải xô đẩy đám đông để đưa cha Thán đến gần
giải tội lần cuối cùng cho anh mình. Ông đội cũng tặng đao phủ 3 quan tiền đề
anh ta chém thật gọn, giúp anh mình đỡ đau đớn.
Thế
nhưng nghe tiếng chiêng trống, và thấy thái độ thương tiếc của nhiều người tham
dự, viên đao phủ không giữ được bình tĩnh phải chém đến ba nhát, đầu vị tử đạo
đạo mới lìa khỏi cổ. Các người em vị tử đạo và các tín hữu ùa vào, ráp đầu vị
chứng nhân với thân mình, khâu lại, thay áo trắng, lấy khăn xanh quấn quanh cổ
ngài, rồi đặt lên võng khiêng về an táng tại họ Chợ Quán.
Năm
1870, bà nhiệm, thân mẫu vị tử đạo thuật lại ở toà điều tra phong thánh rằng: “Hai
vợ chồng chúng tôi nghe con chết thì chẳng còn thảm thiết gì, một vui lòng mà
rằng: chết vậy đặng làm thánh”.
Ngày
27-5-1900, Đức Giáo hoàng Lêo XIII suy tôn ông Matthêu Lê Văn Gẫm lên bậc Chân
Phước. Ngày 19-6-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển Thánh.