CHƯƠNG III
CÓ THIÊN CHÚA KHÔNG?
I. KHOA HỌC VÀ SỰ HIỆN HỮU CỦA THIÊN CHÚAVẤN ĐỀ 08: Chỉ
những gì khoa học chứng minh được mới có thực, mà Thiên Chúa thì cho
tới nay khoa học vẫn chưa chứng minh được, nên không có hoặc không đáng
tin.GIẢI ĐÁP
A. TRÌNH BÀY
1. GIỚI HẠN CỦA KHOA HỌC1) Khoa học thực nghiệm là gì?- Khoa học nói chung là một hệ thống kiến thức tổng quát, khách quan, xác thực hơn kém và đạt được một cách có phương pháp.
Nhưng
khoa học đề cập tới ở đây là Khoa học thực nghiệm (experimental
science), là khoa học theo nghĩa chặt. Đây là một môn học về vật chất,
được khảo sát bằng những thí nghiệm, kiểm chứng nhờ những dụng cụ để đi
tới định luật chung cắt nghĩa các sự kiện khác thuộc vật chất.
-
Thí nghiệm hay thực nghiệm, là một bước trong phương pháp khoa học dùng
để phân minh giữa khoa học hay giả thuyết. Thí nghiệm cũng được sử dụng
để kiểm tra tính chính xác của một lý thuyết hoặc một giả thuyết mới để
ủng hộ hay bác bỏ chúng. Thí nghiệm hoặc kiểm nghiệm có thể được thực
hiện bằng phương pháp khoa học để trả lời một câu hỏi hoặc khảo sát một
vấn đề. Trước tiên là quan sát, rồi đặt ra câu hỏi hoặc đặt vấn đề. Sau
đó, giả thuyết được hình thành. Tiếp đến, thí nghiệm được đưa ra để kiểm
tra giả thuyết. Kết quả thí nghiệm được phân tích, rồi đi đến kết luận,
một lý thuyết được hình thành từ kết quả thí nghiệm, và các kết quả
được công bố trên các tạp chí nghiên cứu.
2) Đối tượng nghiên cứu của khoa học thực nghiệmKhoa
học thực nghiệm có đối tượng nghiên cứu là vật chất trong không gian và
thời gian. Chỉ những gì có thể đo được: dài ngắn, nặng nhẹ, mạnh yếu,
nhiều ít, nhanh chậm, cũ mới… mới thuộc phạm vi nghiên cứu tìm hiểu của
môn khoa học thực nghiệm này.
3) Giới hạn của Khoa học thực nghiệm-
Ngay trong lĩnh vực vật chất là đối tượng nghiên cứu của khoa học thực
nghiệm, thế mà cho tới nay vẫn còn rất nhiều vấn nạn mà các nhà bác học
vẫn chưa tìm ra lời giải đáp thoả đáng. Chẳng hạn: sự sống hình thành và
phát triển thế nào trong một hạt lúa, một con kiến? Chết là gì và tại
sao con người phải chết? Làm thế nào để con người có thể sống mãi? Vũ
trụ vật chất ta đang sống có biên giới không? Xuất hiện từ bao giờ? Gồm
bao nhiêu hành tinh?… Người ta chỉ biết phỏng đoán, hoặc dựa vào một vài
yếu tố để xây dựng những giả thuyết thiếu chính xác, dễ bị sụp đổ với
thời gian.
- Sang đến lĩnh vực tâm linh con người thì khoa học
thực nghiệm hoàn toàn bấc lực vì vượt quá phạm vi họat động của nó.
Chẳng hạn, quan sát một bàn tay đang sờ trên trán của một người, nhà bác
học chỉ có thể biết được: Xương tay mỗi cái di chuyển mấy độ, do những
cơ gân nào điều động; sức nặng của bàn tay là bao nhiêu; cần tốn bằng
nào nhiệt tố (calori) của cơ thể để xê dịch như vậy? Sự cọ xát của hai
làn da phát sinh bao nhiêu nhiệt điện?... Khoa học không thể nói đến ý
nghĩa tâm linh của hành động ấy để khẳng định đó là cử chỉ của một bác
sĩ đang khám bệnh hay là sự vuốt ve của một bà mẹ đang nựng đứa con thơ.
-
Nhìn vào quan hệ giữa người với người, khoa học thực nghiệm chỉ thấy da
thịt cọ xát vào nhau, hai bàn tay đang nắm chặt nhau, nhưng không bao
giờ thấy được tình hữu nghị trong cái bắt tay đó. Khoa học thực nghiệm
cũng không thể dùng các dụng cụ để đọc được tư tưởng của con người,
không thể giải thích được tại sao tôi lại thương người này và ghét người
kia. Dù không thấy không biết, khoa học thực nghiệm cũng không bao giờ
dám quả quyết rằng ý nghĩa hay tình cảm kia là không có.
- Như vậy, phải nói rằng: KHÔNG PHẢI CHỈ NHỮNG GÌ KHOA HỌC CHỨNG MINH ĐƯỢC MỚI CÓ THỰC.
VẪN CÓ NHỮNG THỰC TẠI HIỆN HỮU TRONG THIÊN NHIÊN, NHƯNG VÌ NGOÀI PHẠM
VI THỰC NGHIỆM, NÊN KHOA HỌC ĐÀNH CHỊU BẤT LỰC KHÔNG THỂ CHỨNG MINH
ĐƯỢC.
2. KHOA HỌC VÀ SỰ HIỆN HỮU CỦA THIÊN CHÚA1)
Khi nhìn vào vũ trụ thiên nhiên với những trật tự lạ lùng kỳ diệu, con
người có trí khôn đã đặt ra ngay câu hỏi: “Vũ trụ và trật tự ấy do đâu
mà có?” Từ đó, với trí khôn suy luận từ hậu quả tới nguyên nhân, con
người đã đi đến kết luận: phải có một Đấng nào đó đã sáng tạo nên chúng.
Đấng ấy được gọi là Thiên Chúa, Thượng Đế, Ông Trời… tuỳ theo mỗi dân tộc, địa phương…
2)
Tuy nhiên, một số người lại dựa vào khoa học để phủ nhận sự hiện hữu
của Thiên Chúa. Theo họ, cho tới nay khoa học vẫn chưa chứng minh là có
Thiên Chúa, nên chắc không có thực. Ý niệm về một vị Thiên Chúa sáng tạo
chỉ là sự mê tín do một số nhà duy tâm bày đặt ra nên không đáng tin.
Ngày 12/04/1961, YURI GAGARIN một phi hành gia người Liên Xô đã trở
thành người đầu tiên bay vào vũ trụ. Phi thuyền chở ông đã quay về an
toàn sau 108 phút bay quay quanh trái đất. Sau cuộc du hành, Gagarin đã
tuyên bố: “Trong cuộc bay lượn giữa các vì sao, tôi chẳng nhìn thấy
Thiên Chúa đâu cả.” Linh mục DOMINIQUE DUBARLE, một nhà triết học tôn
giáo, chuyên gia tại Công đồng Vatican II và là trưởng khoa triết học
tại Viện Công giáo Paris (1967-1973) đã trả lời: “Vậy thì ông cho rằng
Thiên Chúa là một loài có xương thịt và thở bằng không khí hay sao?”
Người tín hữu Công giáo, dù chỉ là một đứa bé cũng biết rằng: Thiên Chúa
là Đấng thiêng liêng, chứ không phải là loài vật chất hữu hình giống
như các thụ tạo do Ngài sáng tạo. Do đó, các phi hành gia dù có đi trong
vũ trụ bao lâu đi nữa cũng không bao giờ có thể nhìn thấy Ngài. Thiên
Chúa thiêng liêng thì làm sao phi hành gia có thể xem thấy được? Cũng
như với cặp mắt thường, chúng ta không nhìn thấy vi trùng trên miếng mít
vừa bị con nhặng đậu vào. Nhưng không thấy không đồng nghĩa với không
có. Vì khi nhìn qua kính hiển vi chúng ta sẽ thấy hàng triệu vi trùng
trên miếng mít nói trên. Cũng vậy, với mắt thường chúng ta không thể
nhìn thấy Thiên Chúa trong vũ trụ thiên nhiên, nhưng với mắt đức tin,
chúng ta chắc chán sẽ thay được sự hiện hũu của Ngài.
3) Thiên
Chúa là nguyên nhân tối hậu, là căn nguyên của vũ trụ vạn vật, là Đấng
đã sáng tạo vũ trụ vật chất từ hư không, nhưng Ngài không đồng hoá với
các thụ tạo do Ngài tạo dựng. Thiên Chúa ở ngoài không gian và thời gian
và không lệ thuộc vào vũ trụ thiên nhiên vật chất. Ngài là Đấng thiêng
liêng vô hình, không phải là một loài vật chất hữu hình… nên Ngài không
phải là đối tượng nghiên cứu trực tiếp của khoa học thực nghiệm. Khoa
học không có quyền quả quyết có hay không có Thiên Chúa, vì điều đó nằm
ngoài phạm vi của nó. Cũng như khi nghiên cứu tìm hiểu về một cái bàn,
nhà khoa học chỉ có thể phân tích, cân, đo… những gì là vật chất chứa
đựng trong cái bàn đó như các chất gỗ, sắt… Nhưng lại bất lực không thể
chứng minh có ai đó đã làm nên cái bàn ấy. Người ta phải dùng trí khôn
suy luận từ hậu quả đến nguyên nhân để quả quyết chắc chắn: cái bàn
không thể tự nhiên xuất hiện, nhưng phải có một bác thợ mộc nào đó đã
làm ra nó. Cũng vậy, khi nhìn thấy vũ trụ thiên nhiên với những định
luật trật tự lạ lùng hoàn hảo, trong đó khoa học chỉ có thể nghiên cứu
tìm hiểu những định luật, những hiện tượng thiên nhiên, những gì thuộc
vật chất… nhưng không bao giờ chứng minh được rõ ràng về sự hiện hữu của
Thiên Chúa? Khoa học không thể cho biết sinh hoạt của Thiên Chúa ra
sao?... Vì Thiên Chúa là Đấng thiêng liêng vô hình, và không hiện diện
tại một nơi nào đó trong vũ trụ, không lệ thuộc vào những định luật
không gian và thời gian do Ngài sáng tạo. Muốn nhận biết Thiên Chúa,
người ta phải sử dụng trí khôn suy luận từ hậu quả đến nguyên nhân: Có
vũ trụ trời đất với những trật tự lạ lùng kỳ diệu thì đương nhiên đã
phải có một Đấng nào đó không phải là vật chất, đã tạo dựng nên chúng và
an bài để chúng tiếp tục tồn tại. Đấng ấy chính là Thiên Chúa.
TÓM LẠIKhoa
học ngày nay tuy đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn luôn có giới hạn. Khoa
học chẳng qua chỉ là sản phẩm của trí khôn hữu hạn của con người, có
nhiệm vụ khám phá những gì vẫn có trong vũ trụ thiên nhiên và hướng
những hiểu biết ấy vào việc phục vụ con người. Khoa học ngày càng tiến
triển là một bằng chứng cho thấy sự hữu hạn của nó. Vì còn tiến tức là
còn có nhiều điều khác vẫn chưa khám phá ra. M. POINCARÉ đã nói: “Khoa
học dù có tiến xa thì phạm vi của nó vẫn có hạn. Ngoài giới hạn của nó
là sự bí mật. Biên giới càng xa thì bí mật càng rộng.” ARSONVAL cũng
khẳng định: “Một câu trả lời của nhà khoa học sẽ gợi ra 20 vấn nạn khác.
Khoa học là trường rèn luyện về đức tính khiêm tốn và thành thực.”
YOUNG cũng phải thú nhận rằng “càng giỏi càng thấy mình dốt".
Ngay
trong phạm vi vật chất, nhà khoa học còn bất lực không thể giải đáp
được nhiều vấn đề, phương chi về những vấn đề siêu hình như sụu hiện hữu
của Thiên Chúa, linh hồn, đời sau… Đây là những vấn đề vượt quá khả
năng của khoa học thực nghiệm mà chỉ có triết học suy luận và thần học
mặc khải mới có quyền lên tiếng. Tuy nhiên, khoa học có thể đóng góp
tích cực trong việc tìm kiếm chân lý: khoa học có thể nghiên cứu và cho
biết sự sắp đặt kỳ diệu, những định luật lạ lùng chi phối thiên nhiên…
rồi nhờ nguyên tắc nhân quả của triết học, con người sẽ nhận biết Đấng
Tạo Hoá và nhờ mặc khải của Thiên Chúa trong Thánh Kinh, con người sẽ
hiểu biết nhiều mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vì thế, ông NEWTON, một nhà
thiên văn học lừng danh đã mạnh dạn quả quyết: “Tôi nhìn thấy Thiên Chúa
ở đầu thiên lý kính của tôi.”
3. THẢO LUẬN1)
Bạn sẽ trả lời thế nào khi nghe một người bạn nói khoa học đã chứng
minh ngòai con người, không có một Thiên Chúa hay thần minh nào khác cả?
2) Hãy cho biết cứ cãi lý nhau về có hay không có Thiên Chúa liệu
sẽ có người thắng người thua không? Điều quan trọng nhất các tín hữu cần
làm khi gặp một người bạn phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa?
B. PHÚT HỒI TÂM
1) LỜI CHÚA: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp tay Ngài.” (Tv 18,2)
2) LỜI CẦU-
Lạy Chúa Cha từ bi nhân ái! Xin cho chúng con luôn xác tín vê sự hiện
hữu cua Chúa trong vũ trụ thiên nhiên va trong mỗi giây phút trong cuộc
sống của mỗi người chúng con, để không ngừng dâng lời ngợi khen chúc
tụng Chúa noi gương Mẹ Maria: “Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa… Đấng
Tòan Năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả, danh Người thật chí thánh
chí tôn.” (Lc 1,46b.49).
- Mỗi khi gặp phải một kẻ cứng lòng
tin. Xin cho chúng con biết cầu xin Chúa đổ ơn Thánh Thần giúp chúng con
biết phải đối thọai và trình bày đức tin thế nào để giúp họ nhận biết
Chúa? Chúng con luôn xác tín rằng: đức tin là do ơn Chúa ban và đòi sự
thiện chí đón nhận của con người. Xin giúp chúng con biết làm chứng cho
Chúa bằng một lối sống yêu thương, khiêm nhường và phục vụ tha nhân vô
vụ lợi và phó thác thành quả cho Chúa quan phòng. AMEN.
II. CHỨNG MINH THIÊN CHÚA HIỆN HỮUVẤN ĐỀ 09: Bạn là người Công giáo, nghĩa là bạn tin có Thiên Chúa. Vậy bạn hãy chứng minh có Thiên Chúa đi xem.
GIẢI ĐÁP
A. TRÌNH BÀY
Khoa học không bàn đến vấn đề Thiên Chúa, không thể quả quyết có Thiên Chúa hay không, vì đây không thuộc lĩnh
vực nghiên cứu tìm hiểu của nó. Tuy nhiên, khoa học vẫn có thể giúp các
tín hữu chúng ta dễ dàng nhận biết sự hiện hữu của Thiên Chúa nhờ những
khám phá của nó về vũ trụ thiên nhiên, về những định luật chi phối hoạt
động của các sinh vật và nhất là loài người, những sự điều tra khách
quan về các hiện tượng lạ thường trái với định luật thiên nhiên cho thấy
có sự can thiệp của một quyền lực siêu nhiên… như sau:
I. VŨ TRỤ MINH CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA
1. Đại vũ trụ minh chứng có Thiên Chúa-
Vũ trụ bao la vô hạn: mở mắt nhìn xung quanh, ta thấy vũ trụ bao la vô
hạn. Khoa học giúp chúng ta hiểu rõ các hiện tượng và sức chuyển động
trật tự của mọi vật trong đó. Với con mắt thường, ta có thể đếm được
khoảng 5.000 ngôi sao lấp lánh trên bầu trời bao la. Nhưng nhờ viễn vọng
kính đặt trên núi Wilson, các nhà thiên văn học có thể nhìn thấy hơn
200 triệu ngôi sao. Còn biết bao nhiêu ngôi sao khác người ta đã nhận
biết, nhưng vì ở quá xa, nên tới nay các nhà thiên văn vẫn chưa thể xác
định được. Nguyên trong dải ngân hà mà thái dương hệ của chúng ta chỉ
chiếm một phần nhỏ bé, người ta cũng đã tính được tới 50 tỷ định tinh và
hàng tỷ ngôi sao đã chết. Mà không phải chỉ có một giải ngân hà, hiện
nay người ta đã biết được có hàng tỷ giải ngân hà rồi.
- Sự vĩ
đại của các tinh tú: Những vì tinh tú to lớn làm sao, mấy hành tinh ở
gần chúng ta như Uranus đã lớn hơn trái đất 14 lần, Neptune to hơn 17
lần, Saturne 93 lần, Jupiter 1.279 lần và mặt trời to hơn những
1.300.000 lần. Sao Sirius còn to hơn mặt trời 12 lần, còn nhiều sao khác
còn to hơn sao Sirius nữa…
- Khoảng cách giữa các ngôi sao:
Những vì tinh tú ở cách xa nhau đến nỗi ta không thể đọc bằng con số
thường, mà phải lấy đơn vị là quang niên (năm ánh sáng) như sau: Vận tốc
ánh sáng trong một giây đồng hồ là 299.792.458 km, tương đương 300.000
km/giây. Mỗi phút có 60 giây, mỗi giờ có 60 phút, mỗi ngày có 24 giờ,
mỗi năm có 365 ngày ¼. Vậy một quang niên sẽ là 299.792.458 km x 60 x 60
x 24 x 365,1/4 sẽ thành 9.460 tỷ cây số. Ánh sáng từ mặt trời đến trái
đất chúng ta phải mất thời gian 8 phút 20 giây, từ trái đất đến mặt
trăng phải mất hơn 1 phút. Nhưng nếu từ trái đất vượt qua thái dương hệ
đến ngôi sao gần nhất trong chòm sao Nhân Mã phải mất thời gian 4 năm (4
quang niên ). Nhờ thiên lý kính ta biết được những tinh vân xa 140
triệu quang niên. Càng ngày với những kính viễn vọng kính tối tân hơn,
người ta lại càng xem thấy xa hơn nữa.
- Vũ trụ vận hành chính
xác: Trái đất mỗi ngày quay chung quanh mình một vòng, đang khi nó vẫn
chạy theo quỹ đạo mặt trời với vận tốc 30 km/giây, hoặc 108.000 km/giờ
không bao giờ sai trật, đến nỗi các nhà bác học có thể tính trước được
ngày giờ của các hiện tượng nhật thực, nguyệt thực.
- Vũ trụ vận
hành trật tự: Bầu trời rộng rãi bao la vô hạn thế mà mấy phi công lái
máy bay thỉnh thoảng lại đụng nhau gây nên biết bao tang tóc! Vậy mà từ
tạo thiên lập địa đến nay vẫn chưa có một hành tinh nào chạm nhau giữa
bầu trời nhiều tinh tú như thế.
Vậy thì vũ trụ bao la với trật tự
kỳ diệu, tuân theo những định luật lạ lùng chính xác như thế lại không
phải là bằng chứng chắc chắn có sự sắp đặt an bài của Đấng Tạo Hoá hay
sao? Becquerel đã nói: “Chính các công cuộc khảo cứu khoa học của tôi đã
đưa tôi đến chỗ nhận biết có Thiên Chúa tạo hóa và làm cho tôi có đức
tin.”
2. Tiểu vũ trụ cũng chứng minh có Thiên Chúa
Vũ
trụ tinh tú khổng lồ thật là một kỳ công. Nhưng vũ trụ nguyên tử tý hon
cũng không kém phần lạ lùng kỳ diệu. Nếu đem phân tích vật chất, ta sẽ
thấy:
- Đơn chất: Mọi vật chất trong vũ trụ thiên nhiên đều được
cấu thành bởi những đơn chất. Chẳng hạn, cái bàn do nhiều đơn chất gỗ
hợp lại thành; chiếc nhẫn là do nhiều đơn chất vàng cấu tạo nên… Những
đơn chất này rất nhỏ, nhỏ đến nỗi mắt thường của chúng ta không thể phân
biệt được chúng với nhau.
- Nguyên tử: Mỗi đơn chất nói trên lại
được cấu tạo bởi một số nguyên tử nhất định. Chẳng hạn, chất nước gồm
một nguyên tử Ôxy và 2 nguyên tử Hyđrô kết hợp thành đơn chất H
2O.
+
Các nguyên tử đều khác nhau tuỳ theo mỗi vật: nguyên tử đồng khác
nguyên tử sắt; nguyên tử vàng khác nguyên tử gỗ… Những nguyên tử này ở
rải rác khắp nơi trong vũ trụ, khi thì kết cấu với cái này, khi thì với
cái khác làm thành sự biến hoá vật chất không ngừng trong thiên nhiên.
Ta có thể ví các nguyên tử giống như 24 chữ cái a,b,c… hợp tan, tan hợp,
làm thành các tiếng. Đến nay các nhà bác học đã xác định được 92 nguyên
tử khác nhau.
+ Nguyên tử nhỏ lắm, nhỏ đến nỗi những kính hiển
vi phóng đại mạnh nhất cũng không thể nhìn ra được. Người ta chỉ căn cứ
vào dấu vết nó đi qua để nhận biết sự hiện hữu của nó. Hiện nay những
kính hiển vi tối tân nhất có thể nhìn những vât nhỏ bằng 2/10 triệu
milimét. Nhưng như thế vẫn còn lớn hơn nguyên tử hàng mấy triệu lần!
+
Mỗi nguyên tử là một thái dương hệ, có một nhân ở trung tâm giống như
mặt trời, gồm các dương điện tử (proton) và trung hòa tử (neutron) liên
kết với nhau. Lượn xung quanh nhân là chi chít những âm điện tử
(electron). Các âm điện tử này chạy chung quanh trung tâm với tốc độ
297.000km/giây. Thật không khác gì các hành tinh lượn xung quanh mặt
trời và cách xa nhau tương đối cũng bằng khoảng cách của các hành tinh
đối với mặt trời vậy.
+ Khoảng giữa các nguyên tử, có gì không?
Thực không có gì hết. Nếu các nguyên tử sát lại với nhau thì ta không
thể nâng nổi đầu của một cái kim khâu. Trọng lượng của các vật nặng nhẹ
khác nhau là vì cách xếp đặt nguyên tử của các vật đều khác nhau. Nếu
người ta có thể dồn ép các nhân dương điện tử trong một nguyên tử, và
các nguyên tử trong thân thể con người khít lại gần nhau, thì thân thể
ta chưa chắc to bằng một hạt đậu, mà vẫn cân nặng như hiện nay!
+
Có một sức lực ghê gớm đã giữ cho trái đất và các hành tinh quay chung
quanh mặt trời, thì cũng có một sức lực tương tự giữ âm điện tử quay
chung quanh trung tâm nguyên tử như vậy. Nếu lợi dụng được sức mạnh mẽ
đó, thì người ta sẽ có một sức mạnh kinh khủng. Đó là điều các nhà bác
học đã làm để chế tác bom nguyên tử với chất Uranium. (Bom nguyên tử là
một thứ khí giới tối tân nhất có sức tàn phá do những hạt nguyên tử bị
tách ra, Radium luôn luôn chiếu ra những quang tuyến “A.B.Y.” và quang
tuyến Y luôn luôn phát ra những chất cực nhỏ có thể xuyên qua những tấm
sắt dày 20cm. Chỉ có lớp chì dày mới có thể cản được sức tàn phá của
nó.)
+ Những điều nói trên cho ta thấy có sự xếp đặt, an bài trật
tự từ cái cực to đến cái cực nhỏ, trật tự ấy lại rất hoàn hảo không thể
làm khác đi được. Nếu cố tình làm sai thì sẽ gây nên những hậu quả tai
hại khôn lường.
+ Một câu chuyện xảy ra chứng minh trật tự thiên
nhiên hoàn hảo đến độ nào: một con ong dù không có trí khôn, nhưng nó
luôn phải bó buộc làm theo bản năng thúc đẩy. Theo bản năng thiên phú,
khi làm tổ chứa mật, ong tự nhiên xây bình chứa hình lục lăng. Các nhà
bác học đã quan sát nghiên cứu cách xây dựng tổ ong và đã đo rất nhiều
bình do nhiều loại ong thực hiện, bao giờ góc tù của bình ấy cũng là
109028’ và góc nhọn cũng là 70032’.
+ Nhà Bác học REAMUR một ngày
kia đặt câu hỏi thế này: Giả sử muốn làm một cái bình hình lục lăng có
khả năng chứa nhiều nước nhất thì phải làm mỗi góc của bình ấy bao nhiêu
độ? Một nhà bác học ra công tính toán những con tính rắc rối với việc
sử dụng cả bảng tính Logarithme, cuối cùng tuyên bố kết quả: muốn cho
bình chứa được nhiều nước nhất phải làm góc tù là 109026’ và góc nhọn là
70034’. Chỉ sai biệt với bình chứa của ong làm có 2’. Thế rồi một ngày
nọ xảy ra tai nạn làm hỏng một chiếc tàu. Thuyền trưởng không chịu trách
nhiệm vì cho rằng mình đã làm đầy đủ bổn phận, đã tính toán rất đúng.
Vậy sở dĩ có rủi ro là vì đường vĩ tuyến có sự sai lầm sao đó. Sau khi
tìm tòi lâu ngày, người ta mới khám phá ra rằng trong bảng tính
Logarithme có một chỗ sai, khiến vị thuyền trưởng làm tính sai và gây ra
tai nạn cho chiếc tàu. Chữa lại chỗ sai trong bảng tính rồi thử lại với
cách tính 2 góc của hình lục lăng nói trên thì các nhà bác học mới thấy
mình đã làm sai 2’. Phải thực hiện chiếc bình theo góc tù là 109028’ và
góc nhọn cũng là 70032’ như con ong đã làm mới đúng.
+ Vậy loài
ong không có trí khôn biết tính toán như con người, chỉ biết làm theo
bản năng thiên phú, thế mà lại làm đúng hơn cả những nhà bác học thông
minh nhất! Đứng trước sự kiện hiển nhiên ấy, loài người phải đặt vấn đề:
Cái trật tự hoàn hảo trong thiên nhiên nói trên do đâu nếu không bắt
nguồn từ một trí khôn siêu việt, đã từng sáng tạo vạn vật và an bài theo
một trật tự hoàn hảo được gọi là định luật thiên nhiên nơi vũ trụ và
bản năng nơi các sinh vật. Nguyên nhân ấy chính là Thiên Chúa.
II. SINH VẬT CHỨNG MINH CÓ THIÊN CHÚASự
sống tràn đầy trên mặt đất, đâu đâu ta cũng nhận thấy có sinh vật hoạt
động. Nhưng cho tới nay, sự sống vẫn còn là một huyền nhiệm mà khoa học
bất lực không thể giải thích được lý do. Sự sống sẽ là một điều phi lý
nếu người ta không công nhận có Thiên Chúa.
1. Huyền nhiệm của sự sống
1)
Sự sống là một cái gì đó huyền bí: Người ta chỉ có thể cảm nghiệm hay
thấy được hiệu quả của sự sống, chứ không thể nhìn được chính sự sống
nơi cơ thể một sinh vật sống động. Người ta cũng có thể làm thay hình
đổi dạng, cắt cụt một phần cơ thể con vật, có thể làm cho nảy nở nhanh
chóng hơn, hoặc kéo dài them chút ít sự sống, nhưng không bao giờ có thể
thay đổi được nguyên lý của sự sống nơi con vật. Chẳng hạn: con chó đã
được cấu tạo trở thành loài chó, thì không có cách nào làm cho nó hóa ra
loài bồ câu được.
Để tìm hiểu sự sống, các nhà bác học đã phân
chất một quả trứng gà, rồi dùng các chất y như vậy để làm nên một quả
trứng gà khác với đầy đủ mọi tính chất như trứng gà thực. Tuy vậy, dù
được cấu tạo giống hệt như nhau, mà khi đem cả hai vào máy ấp thì trứng
do gà đẻ ra đã sống và nở ra gà con, còn trứng gà của các nhà bác học
“đẻ” ra thì chết và bị hư thối. Sở dĩ trứng nhân tạo không thể sống, dù
các yếu tố vật chất trong quả trứng ấy vẫn hoạt động đúng theo định luật
vật lý hoá học, là vì không có một sức lực vô hình liên kết các hoạt
động ấy theo một hướng chung, phát triển theo một mô thức chung. Chính
sức lực vô hình ấy là bí mật của sự sống. Bác sĩ ALEXIS CARREL
(1873-1944) là nhà giải phẫu và sinh vật học người Pháp đã được trao
Giải Nobel Sinh lý và Y khoa năm 1912, đã trình bày về sự tăng triển kỳ
diệu của sự sống từ một tế bào, rồi tế bào ấy tự phát triển theo một mô
thức đặc biệt để trở thành con vật sống động: “Con vật được cấu tạo bởi
những tế bào, cũng giống như cái nhà được xây dựng bằng những viên gạch.
Nhưng con vật xuất phát từ một tế bào duy nhất, như thể cái nhà chỉ bắt
nguồn từ một viên gạch mà thôi. Một viên gạch đầu tiên tự tạo lấy những
viên gạch khác, chỉ với nước suối, những chất muối hoà tan trong nước
vá khí trời. Rồi những viên gạch ấy không cần đến kiến trúc sư vẽ kiểu,
khong cần đến bàn tay của thợ hồ, đã tự động kết hợp thành những bức
tường. Các viên gạch cũng tự động biến thành các tấm kính để làm cửa,
ngói để lợp mái, than để đốt lò, nước để làm bếp.” (Alexis Carrel:
“L’Homme, cet inconnu”- p. 160).
Như vậy thì hình như mầm giống
con vật sinh sống đã biết trước cái nhà mà nó xây dựng. Hiện tượng kỳ lạ
ấy diễn ra hằng triệu lần mỗi ngày cho hằng triệu giống vật sinh sống,
cũng như diễn ra âm thầm trong bụng những con vật mẹ.
2) Sự sống
nơi con người: Khi nhìn vào sinh vật thượng đẳng là con người chúng ta
lại càng phải thán phục sự tinh vi kỳ diệu và hoàn hảo của sự sống: hai
buồng phổi là một xưởng máy sản xuất dưỡng khí thật hoàn hảo. Dạ dày là
một nhà máy chế biến đồ ăn trở thành chất bổ nuôi dưỡng cơ thể. Gan là
bộ máy phát ra sức nóng và sức chuyển động. Thận là nhà máy lọc các chất
dơ. Trái tim là thứ máy bơm hai chiều. Óc và hệ thần kinh là nhà máy
điện tử với một hệ thống liên lạc để điều khiển toàn thân. Hai tay là
hai cơ quan hành động hữu hiệu. Chân là cơ quan để di chuyển. Mắt là một
thứ máy chụp tự động tối tân nhất. Tai là một đài ra-đa sống động. Họng
là máy phát thanh hoàn hảo… Có thể nói: cơ thể sống động của con người
thực là một hiện tượng thần kỳ và khó hiểu nhất trong vũ trụ thiên
nhiên, là một kỳ quan lớn nhất trong các kỳ quan trên thế giới.
Vậy sự sống bí nhiệm lạ lùng nơi các sinh vật từ hạ đẳng đến thượng đẳng nói trên bởi đâu xuất hiện?
2. Nguồn gốc của sự sống
Nói về nguồn gốc sự sống do đâu mà xuất hiện thì có rất nhiều giả thuyết khác biệt nhau được nêu ra:
1) Một số người quả quyết sự sống vẫn có ngay từ buổi đầu, ngay từ khi trái đất bắt đầu thành hìnhNhưng
theo các nhà khoa học thì trái đất khi mới xuất hiện là một khối lửa có
nhiệt độ rất cao ở thể chảy lỏng rồi phải mất một thời gian dài mới
nguội dần. Như vậy, sự sống làm sao có thể chịu nổi sức nóng kinh khủng
thuở ban đầu ấy được? Ông Cuvier, một nhà cổ sinh vật học trứ danh, đã
quả quyết: “Nhất định sự sống không bắt đầu cùng với trái đất. Một nhà
quan sát sẽ dễ dàng nhận biết lúc nào sự sống mới xuất hiện và lưu lại
vết tích dưới các tầng đất của địa cầu.” Vậy lúc đầu tiên không có mà
ngày nay ta thấy sự sống đã tràn lan trên mặt đất. Thế thì sự sống ấy do
đâu mà có nếu phủ nhận sụ sáng tạo của Thiên Chúa?
2) Có người
lại cho rằng sự sống ngày nay có được là do các mầm sống từ một nơi nào
đó trong vũ trụ rơi xuống mặt đất, rồi sau đó sinh sôi nảy nở thêm ra và
lan rộng ra khắp nơi.
Nhưng nếu thực sự có mầm sống từ không
trung rơi xuống như thế, thì lại phải giải thích cái mầm sống ấy từ đâu
ra? Hơn nữa, theo những khám phá mới nhất của khoa học không gian thì
những hành tinh gần chúng ta như Mặt trăng (cũng là một hành tinh ngang
hàng với trái đất chứ không phải phát xuất từ trái đất!), Kim tinh, Hoả
tinh đều không có dấu hiệu nào cho thấy có sự sống cả. Đàng khác, nếu có
mầm sống rơi như vậy, thì theo các nhà khoa học: mầm sống ấy chắc chắn
không thể sống được, mà đã bị các tia phóng xạ của ánh sáng mặt trời
tiêu diệt rồi.
3) Cũng có người lại chủ trương sự sống tự nhiên
mà có. Theo họ, trong một điều kiện nào đó về nhiệt độ và khí hậu… thì
vật chất sẽ tự hoá sinh ra các sinh vật. Chẳng hạn, cái bàn bằng gỗ sau
ít năm sẽ tự nhiên bị mối mọt ăn, hoa quả thối chín sẽ tự nảy sinh ra
dòi bọ…
Nhưng
thuyết sự sống tự phát sinh này đã bị PASTEUR và TYNDALL chứng minh
ngược lại. Hai nhà bác học thời danh này đã làm một thí nghiệm cho thấy:
không bao giờ có sự tự hoá sinh. Hai ông đã cô lập hoá một vài môi
trường mà sự sống thường phát sinh. Rồi tìm cách loại bỏ, giết chết tất
cả các mầm sống có sẵn trong môi trường ấy. Hai ông cho biết: dù có đủ
điều kiện thích hợp, môi trường bị cô lập kia cũng không bao giờ tự hoá
sinh sự sống nữa. Vậy sở dĩ có trường hợp vật chất hoá sinh sự sống là
vì đã có sẵn mầm sống trong các vật đó rồi, nên khi đủ điều kiện mầm
sống ấy liền tự nảy nở ra. Thực sự không có vấn đề ngẫu sinh hay tự hoá sinh cả.
Ngoài
ra, tất cả những thí nghiệm nhằm tạo nên tế bào sống đều thất bại. Một
vị giáo sư sinh vật học nọ một ngày kia đã thử làm một hạt giống nhân
tạo. Ông phân chất một hạt giống thật, rồi dùng những chất liệu như vậy
để chế tạo ra một hạt giống khác. Sau một thời gian quan sát, ông nhận
xét: hạt giống nhân tạo cũng mọc lên, có rễ, có thân, nhưng vẫn không có
sự sống, không thở, không lưu chuyển nhựa sống. Sở sĩ cây có mọc lên mà
không sống là vì thiều hai đặc tính quan trọng của sự sống là: có tổ
chức và tự dinh dưỡng. Còn sự mọc rễ, mọc thân nói trên cũng chỉ là một
hiện tượng vật lý hoá học của các chất hữu cơ, chứ không có chút dấu vết
nào của sự sống thực sự. Bác sĩ HALLUIN giải thích thêm về hiện tượng
mọc rễ mọc thân: “Hạt giống mọc lên thực. Nhưng núi đá cũng mọc lên mà
vẫn không có sự sống, cũng như một quả bóng người ta thổi hơi vào cũng
phình ra mà vẫn không có sự sống, thân cây rong biển khô, được đặt vào
nơi ẩm ướt cũng phình lên to, nhưng sự phồng lên đó không phải dấu hiệu
có sự sống.”
Nhà Bác học DELAGE đã làm một thí nghiệm về sự thụ
thai nhân tạo: ông cho một con hải đởm cái thụ thai mà không theo cách
thức thông thường là giao hợp với con đực. Mượn lấy thí nghiệm ấy, một
số người vô tín đã vội lên tiếng quả quyết: “Loài người đã tạo dựng lên
được sự sống.” Nhưng chính Delage lại phủ nhận quả quyết mà người ta đã
gán cho thí nghiệm của ông: “Khi tôi làm được cho con hải đởm thụ thai
và sinh con như thế, người ta kêu ầm ĩ lên rằng: tôi đã tạo ra được sự
sống. Nhưng thực sự tôi chẳng tạo ra được gì cả. Những ống tiêm của tôi
chỉ có thể ảnh hưởng đối với trứng của con vật kia, khi tiêm vào đó một
chất hữu cơ. Còn nói rằng tôi đã tạo ra được sự sống thì thực là lầm
to!”
Như vậy, không có vấn đề ngẫu sinh, không có tự hoá sinh
tuyệt đối. Khoa học không thể làm được một vật sống động nếu không có
sẵn một mầm sống trước đó. Nếu sự sống không tự nhiên có thì phải nhận
có sự sáng tạo của một nguyên nhân tối hậu nào đó. Nguyên nhân ấy là
Thiên Chúa. Chính Ngài đã sáng tạo sự sống cách trực tiếp hay gián tiếp
bằng cách xếp đặt một trật tự, một định luật trong vật chất, để khi có
đủ điều kiện thì mầm sống ấy sẽ xuất hiện.
Ngoài ra, khi tìm hiểu
vũ trụ thiên nhiên, người ta cũng nhận ra rằng: có một sự xếp đặt nhằm
bảo tồn sự sống nơi các định luật thiên nhiên chi phối sự vận hành của
các hành tinh trong vũ trụ.
3. Bảo tồn sự sốngKhoa
học cho biết: sự sống chỉ có thể tồn tại và phát triển nếu hội đủ điều
kiện về khí hậu, nhiệt độ, ánh sáng… Nếu thiếu một trong các điều kiện
quan trọng thì sinh vật khó lòng sống được. Khi quan sát các hiện tượng
thiên nhiên, người ta đi kết luận như sau: Đã phải có một sự xếp đặt nào
đó để bảo tồn sự sống trong vũ trụ thiên nhiên. Thật vậy:
1) Tốc
độ quay của trái đất cũng giúp bảo tồn sự sống: Trái đất hiện đang quay
với tốc độ 1.600 km/giờ ở đường xích đạo. Nếu quay chậm đi 10 lần, thì
ngày và đêm trên địa cầu sẽ dài gấp 10 lần hiện nay. Như vậy một số cây
sẽ bị chết khô, số còn lại sẽ bị chết cóng.
2) Khoảng cách giữa
mặt trời và trái đất cũng giúp bảo tồn sự sống: Nhiệt độ của mặt trời là
5.500 độ. Trái đất cách quãng xa vừa đủ để cho chúng ta được sưởi ấm.
Nếu giảm đi một nửa khoảng cách cho xa mặt trời hơn thì mọi sinh vật sẽ
đều bị chết vì lạnh. Nhưng nếu để trái đất gần mặt trời thêm một nửa
khoảng cách thì mọi vật sẽ bị chết cháy hết.
3) Độ nghiêng của
trái đất cũng giúp bảo tồn sự sống: Trái đất phải ở vị trí hiện nay,
nghĩa là nghiêng 23 độ thì mới có 4 mùa (xuân, hạ, thu, đông) và 2 cực
mới khỏi bị chồng chất băng tuyết. Nếu nghiêng ở vị trí khác thì mùa
màng sẽ thay đổi khác hẳn, sẽ ảnh hưởng tới sự đâm chồi nảy lộc và đơm
bông kết trái của cây cối.
4) Khoảng cách giữa trái đất và mặt
trăng cũng giúp bảo tồn sự sống: Nếu mặt trăng gần lại trái đất 80.000
cây số thì mỗi ngày nước biển sẽ bao phủ lục địa 2 lần và sẽ cuốn trôi
mọi vật ra biển.
Như vậy, trước những lý chứng hiển nhiên nói
trên, mọi người có trí khôn đều phải công nhận: phải có một trí khôn
siêu việt và một bàn tay quyền năng nào đó đã tạo dựng nên sự sống cách
trực tiếp hoặc gián tiếp, và đã an bài xếp đặt chúng có những điều kiện
thiên nhiên hoàn hảo như hiện nay. Trí khôn siêu việt và bàn tay quyền
năng ấy chính là Thiên Chúa sáng tạo vậy.
***
III. LUẬT LUÂN LÝ MINH CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA1. Nơi mỗi người đều có luật luân lýAi
trong chúng ta cũng đều nghe thấy một tiếng nói thầm kín khuyên bảo
phải làm điều lành và tránh làm điều ác. Đồng thời ta sẽ cảm thấy niềm
vui thoả sau khi thực hiện được một điều thiện, trái lại sẽ cảm thấy ray
rứt bất an nếu cố tình làm trái tiếng nói thầm kín ấy. Đó là tiếng
lương tâm, một luật tự nhiên vẫn có sẵn trong tâm trí mỗi người từ khi
sinh ra.
Luật tự nhiên này có những đặc tính khác hẳn những định
luật vật lý hoá học, hoặc luật lệ xã hội như phong tục tập quán hoặc
luật pháp của quốc gia.
+
Luật lý hoá một khi đủ điều kiện thì đương nhiên phải xảy ra. Chẳng
hạn: lửa gặp rơm khô ngoài khí trời tất nhiên sẽ phải cháy. Còn luật
luân lý thì không những lệ thuộc điều kiện khách quan bên ngoài, nhưng
còn lệ thuộc vào sự lựa chọn chủ quan. Chinh do sự lựa chọn tự do này mà
con người trở thành một loài vật giá trị ưu việt nhất, khác hẳn các
loài vật hành động hoàn toàn do bản năng mù quáng thúc đẩy. Văn hào
CHATEAUBRIAND đã nói: “Con hổ xâu xé con mồi rồi ngủ ngay được. Duy chỉ
có con người sau khi đã nhúng máu thì khó lòng nhắm mắt bình an, vì
những hình ảnh báo oán của kẻ bị hại luôn hiện lên trước mắt y.”
+
Luật xã hội do con người trong xã hội quy định gọi là phong tục tập
quán. Luật pháp quốc gia do một số người đại diện có trách nhiệm thiết
lập và được ghi chép lại thành văn để mọi người trong quốc gia ấy tuân
giữ. Trong khi luật luân lý vẫn có sẵn trong mỗi người từ khi sinh ra,
chứ không nhất thiết phải có ai dạy mới biết, không được ghi chép thành
văn giống như luật quốc gia ở trên. Thế mà hầu như mọi người không phân
biệt thời đại, dân tộc, quốc gia… cũng đều biết cùng một bộ luật căn bản
giống nhau là: phải làm việc lành và tránh làm điều ác, không được giết
người vô tội, không được ăn cắp hoặc cướp đoạt tài sản của người khác
cách bất công, phải thảo hiếu cha mẹ, trọng kính người trên… Mà nếu cố
tình làm trái các điều này thì đương nhiên con người sẽ bị lương tâm cáo
trách, cho dù các việc làm ấy không ai hay biết. Câu chuyện Cain trong
Thánh Kinh chứng tỏ điều đó.
Cain vì ghen tuông nên đã phạm tội
giết đứa em ruột là Abel, rồi sau đó đã chạy trốn con mắt lương tâm theo
dõi nhưng không sao chạy thoát. Cuối cùng Cain đã phải tự tìm đến cái
chết treo cổ để đền tội. Nhà văn hào PLUTARQUE người Hy lạp cũng kể câu
chuyện nội dung như sau: Một gã kia tên là Pessus phạm tội giết cha. Dù
không ai hay biết việc làm của hắn, nhưng có điều lạ là từ hôm đó,
Pessus luôn nghe thấy những con chim én lặp đi lặp lại: “Mày là thằng
giết cha, mày là thằng giết cha!”, dù thực sự loài én chỉ biết kêu một
âm thanh như thường lệ. Hắn tìm cách phá hết mọi tổ én, nhưng vẫn không
xong. Cuối cùng hắn đã buột miệng nói với người khác rằng những con chim
én luôn kêu hắn là kẻ giết cha. Sinh nghi, người ta mở cuộc điều tra và
việc giết cha của hắn đã bị đưa ra ánh sáng.
2. Tiếng lương tâm hay luật luân lý trong con người
Các
câu chuyện trên cho thấy có một thứ luật luân lý tự nhiên gọi là tiếng
lương tâm, chi phối mọi hành động của con người có trí khôn, thuộc mọi
thời đại, mọi dân tộc, màu da, tiếng nói… Vậy luật ấy do đâu mà có?
Có
một số người nói rằng luật luân lý tự nhiên nơi mỗi người là do tự mình
đặt ra cho mình, hoăc cũng có thể do xã hội giáo dục từ nhỏ rồi nhập
tâm dần dần mà ra. Nhưng khi đi sâu vào việc nghiên cứu tìm hiểu, chúng
ta thấy không phải như vậy vì những lý do:
Vì nếu mỗi người tự
đặt ra luật cho mình thì chắc người ta sẽ phải đặt ra những luật dễ giữ
và có lợi cho bản thân, đồng thời sẽ loại bỏ những luật có hại cho bản
thân mình. Nhưng luật luân lý có những đặc tính khác hẳn: khó giữ vì
không luôn phù hợp với khuynh hướng xấu của con người, nên chắc không
phải do tự mỗi người đặt ra cho mình. Đàng khác, nếu mỗi người đều tự
lập ra luật riêng cho mình thì chắc luật luân lý sẽ phải khác nhau chứ
không thống nhất giống nhau như ta thấy trong luật luân lý nơi con người
được.
3. Luật luân lý cũng không phải do xã hội giáo dục, khuôn đúc hình thành dần dần trong tâm hồn mỗi người từ nhỏ đến lớn vì:-
Xã hội là do nhiều cá nhân kết hợp lại thành. Nếu luật luân lý do xã
hội giáo dục thì chỉ những ai sống trong cùng một xã hội mới hiểu biết
và mới giữ luật ấy. Nhưng trong thực tế có những người sống một mình từ
nhỏ tới lớn, không tiếp xúc, cũng không chịu ảnh hưởng của xã hội, thế
mà họ vẫn biết cùng một thứ luật luân lý như nhau. Như vậy, luật luân lý
tự nhiên chắc chắn không phải do xã hội, cũng không bắt nguồn từ xã
hội.
- Đàng khác, nếu luật luân lý bắt nguồn từ xã hội thì chắc
sẽ phải thay đổi tùy theo mỗi xã hội, chứ không thể có tính đồng nhất
trong mọi xã hội như tiếng nói của lương tâm mỗi người được.
4.
Vậy phải đi đến kết luận: luật luân lý tự nhiên có sẵn trong tâm hồn mỗi
người ngay từ khi mới sinh ra, chứ không phải mỗi người tự đặt ra luật
riêng cho mình; Cũng không phải do xã hội khuôn đúc giáo dục hình thành.
Cha mẹ, thầy dạy hay xã hội chỉ đóng vai trò phụ thuộc, giúp cho luật
ấy phát triển mau lẹ và rõ ràng hơn trong tâm hồn đứa trẻ mà thôi. Luật
luân lý tự nhiên ấy phải do Tạo Hoá in sẵn trong tâm hồn con người có lý
trí, tương tự như một thứ bản năng của thân xác. Đấng ấy chính là Thiên
Chúa. Giám mục Jacques Bénigne Bossuet đã nói: “Những chân lý vĩnh cửu
và bất biến của luật luân lý bó buộc ta phải công nhận có một Đấng mà
chân lý vĩnh cửu luôn tồn tại nơi Ngài.”
IV. NHỮNG VIỆC LẠ LÙNG MINH CHỨNG CÓ THIÊN CHÚA
Ngay
trong thế kỷ 21, thế kỷ khoa học tiến bộ vượt bậc trong việc tìm hiểu
và khám phá những định luật chi phối vũ trụ thiên nhiên, chi phối mọi
sinh vật, động vật kể cả con người… Thế mà vẫn không thiếu những trường
hợp lạ lùng trái ngược luật tự nhiên xảy ra khắp nơi: khỏi bệnh nan y
một cách tức khắc không do sự chữa trị thông thường, mà do một thứ quyền
lực thiêng liêng nào đó ngoài tầm hiểu biết của khoa học. Những hiện
tượng xáo trộn trật tự vũ trụ như mặt trời quay ở Fatima của Bồ Đào Nha
vào đầu thế kỷ 20 (năm 1917) đã được hằng vạn người chứng kiến... Tất cả
những hiện tượng ấy gọi chung là các phép lạ.
1. Có phép lạ thực hay chỉ là bịa đặtTừ
11/02 đến 16/07/1858, Đức Mẹ đã hiện ra 18 lần với BERNADETTE
SOUBIROUS. Lần thứ 9, Đức Mẹ chỉ cho Bernadette tìm được nguồn suối dưới
chân hang đá Massabielle. Nơi đây trở thành linh địa, mỗi năm có hơn 6
triệu khách hành hương uống và tắm trong nước suối. Từ 150 năm nay có 7
ngàn trường hợp khỏi bệnh không thể cắt nghĩa được.
Vào trung
tuần tháng 10, mưa hồng ân đổ xuống Lộ Đức. Vị Giám mục Giáo phận Casale
Monferrato ở miền bắc nước Ý chính thức công bố quyết định công nhận
phép lạ thứ 68.
Đức cha NICOLAS BROUWET, Giám mục Lộ Đức, đã
tuyên đọc sắc lệnh công nhận, với sự chứng kiến của BS ALESSANDRO DE
FRANCISCIS, chủ tịch văn phòng y chứng Lộ Đức (BCM). Phép lạ chữa lành
cho nữ tu Luigina Traverso được ghi nhận vào ngày 23/07/1965.
Sœur LUIGINA TRAVERSO sinh năm 1934, bị liệt cột sống. Vị nữ tu này chịu giải phẫu nhiều lần vẫn không khỏi. Uỷ
ban Y khoa Quốc tế Lộ Đức (CMIL) đã chứng thực ngày 23/07/1965, trước
hang đá Lộ Đức, vị nữ tu này đứng dậy được từ xe lăn, đi đứng bình
thường. Đây là phép lạ thứ 68 được chính thức công nhận.
Đức Mẹ
đã phán bảo: ‘‘Các con hãy đến uống và tắm nước suối.’’ Từ đó, nhiều
người được khỏi bệnh. Năm 1884, Giáo hội Công giáo thành lập Văn phòng Y
chứng để xem xét các lời khai. Sau khi được Văn phòng này chấp nhận, hồ
sơ được chuyển qua Văn phòng Y khoa Quốc tế. Sau đó, giáo phận của
người được lành bệnh chính thức mở cuộc điều tra. Nữ tu Luigina Traverso
là trường hợp thứ 68 được công nhận được khỏi bệnh nhờ phép lạ.
Thành
viên của Văn phòng Y chứng và Văn phòng Y khoa Quốc tế gồm cả những
những bác sĩ không Công giáo. Các chuyên gia cần chứng nhận trường hợp
khỏi bệnh không thể giải thích được bằng khoa học. Các tiêu chuẩn xét
nghiệm gồm việc:
- Người bệnh được chẩn đoán một cách minh bạch.
- Bệnh trạng đã được xác nhận trước khi xảy ra phép lạ.
- Người bệnh được hoàn toàn lành bệnh tức khắc và vĩnh viễn, sau này không bị tái phát.
- Việc trị liệu y khoa không phải là nguyên nhân được lành bệnh.
Văn phòng bác bỏ nhiều lời khai không đáp ứng được các tiêu chuẩn vừa kể.
Sau
đây là số liệu các phép lạ Đức Mẹ Lộ Đức: 1858-1870: 7 trường hợp /
1908-1913: 33 / 1946-1965: 22 / 1976-1978: 2 / 1989: 1 / 1999: 1 / 2005:
1 / 2011: 1.
Ngoài phòng khám bệnh khoa học của các bác sĩ, vào
năm 1905, Hội đồng Giám mục cũng đã thành lập một ủy ban điều tra chính
thức của giáo quyền nhằm phân quyết những trường hợp nào là phép lạ,
trường hợp nào là không. Ủy ban làm việc môt cách cẩn thận và vô tư theo
cách thức của một toà án. Những trường hợp được tuyên bố là phép lạ thì
không thể hồ nghi gì được nữa. Từ năm 1905 đến 1913, Uỷ ban này đã công bố 32 phép lạ thực.
Như
vây, phòng khám nghiệm của các y sĩ cũng như ủy ban các giám mục đều đã
xác nhận tại Lộ Đức đã có những trường hợp khỏi bệnh cách lạ lùng.
Trong tạp chí ÉTUDES ấn hành năm 1909, linh mục TEILHARD DE CHARDIN đã
đưa ra quan điểm của Giáo hội về phép lạ Lộ Đức: ‘‘Các phép lạ Lộ Đức là
các sự kiện không thể chối cãi được, chứng minh tác động sáng tạo của
Thiên Chúa.’’
2. Phép lạ bởi đâu?
Những
người không tin có Thiên Chúa khi đứng trước những trường hợp lạ lùng
khoa học không thể giải thích được, đã đem ra rất nhiều lý lẽ để phủ
nhận sự can thiệp của Thiên Chúa:
- Khỏi bệnh vì nguyên nhân tự
nhiên: Vì trong nước suối ở hang Lộ Đức có pha lẫn một thứ chất hóa học
có năng lực chữa được một số bệnh tật.
Nhưng thực sự, khi đem
phân chất thì kết quả cho thấy nước suối ấy cũng chỉ là một thứ nước lã
bình thường như bao thứ nước khác, không có thêm một chất nào khác có
thể chữa bệnh cả. Đàng khác, có nhiều trường hợp bệnh nhân không xuống
đến nước, cũng không uống chút nước ấy, thì bảo khỏi bệnh tại nước thế
nào được?
- Khỏi bệnh là vì lý do tâm lý: Vì quá tin và muốn được khỏi cách mãnh liệt, nên đã ám thị mình đến độ trở thành sự thực.
Nhưng
nếu tin tưởng và ám thị có thể chữa được bệnh, thì nếu muốn được khỏi,
bệnh nhân trước hết đã phải biết tin, biết ám thị. Thế mà có nhiều
trường hợp trẻ con chưa có trí khôn, chưa biết gì hết mà vẫn được khỏi
nhờ lời cầu nguyện của cha mẹ hay người khác, thì khỏi bệnh đâu phải tại
tin hay tại ám thị. Thực ra, ám thị cũng có thể có đôi chút ảnh hưởng
đến một vài thứ bệnh tâm lý, đau thần kinh, điên loạn, chứ không có thể
chữa được các bệnh do vi trùng hay siêu vi trùng gây ra như: Bệnh phong
cùi, ung thư, thổ huyết, lao phổi…
- Khỏi bệnh là vì quy luật tự
nhiên: do ảnh hưởng của một thứ quy luật tự nhiên bí mật nào đó chi phối
mà người ta chưa khám phá ra.
Nhưng nếu vậy thì luật ấy phải có tác dụng điều hoà ,
đồng nhất, bất di dịch, cho dù người ta có biết hay không biết thì luật
đó vẫn tác dụng. Hễ cứ hội đủ điều kiện khách quan là đương nhiên kết
quả phải xảy ra. Chẳng hạn, người mù trước làm thế nào để được khỏi mù
thì các người sau cứ làm đúng như thế sẽ đương nhiên được sáng mắt.
Nhưng ở Lộ Đức thì tình trạng lại khác hẳn: Có người được khỏi khi tắm,
người khác thì khỏi khi đang cầu nguyện vào những thời gian khác nhau
trong ngày: sáng, trưa, chiều, tối… Ở điều kiện nào cũng có người được
khỏi. Có những trường hợp hai người bệnh cùng trong một hoàn cảnh, cùng
một thứ bệnh giống nhau, mà người thì được khỏi, người thì không. Như
vậy, không thể nói có một luật bí mật được.
- Khỏi bệnh do có sự lừa dối nào đó: cần phải chờ sự phán quyết của các nhà bác học hoàn toàn vô tư.
CARREL, một vị tiến sĩ y khoa, giáo sư giải phẫu học tại Đại
học Lyon Pháp, trước khi đi Lộ Đức quan sát tận nơi cũng đã nghĩ như
vậy. Ông cho rằng: có lẽ các nhà khoa học chưa khám nghiệm kỹ đủ, có thể
còn một vài sơ suất chưa cân nhắc tường tận. Theo Carrel: Ngoài những
sự kiện khoa học tìm ra và kiểm chứng rõ ràng thì không còn chân lý nào
khác có giá trị. Không thể có phép lạ được! Nhưng trước sự khỏi bệnh lạ
thường của Marie Ferrand, một cô gái đang hấp hối vì bệnh lao ruột ở
giai đoạn chót mà các bác sĩ đều từ chối không dám mổ cho cô, mà Carrel
đã chứng kiến tận mắt từ khi cô gái này mới đến Lộ Đức cho tới lúc khỏi
bệnh tức khắc mà không thể cắt nghĩa được. Ông đã chịu khuất phục và ghi
chú trong nhật ký: “Thật là một chuyện không có thể, nhưng có thực. Quả
là bất ngờ: một phép lạ vừa mới xảy ra.” Ngay lúc đó không còn tin ở
mình, Carrel lập tức mời hai bác sĩ bạn ông tới chứng kiến và các ông
này cũng đều chứng nhận: “Cô này không còn bệnh gì hết, cho cô ra khỏi
nhà thương.”
Việc bác sĩ vô thần Carrel thay đổi tâm hướng đã nói
lên một sự thật mà con người dù yêu sách đến đâu cũng phải suy nghĩ:
Quả thật, có Đấng Tạo Hoá, có Thiên Chúa. Ngài là Đấng đã thiết lập trật
tự trong vũ trụ thiên nhiên, thì trong một vài trường hợp đặc biệt,
Ngài cũng có thể để xảy ra ngoài trật tự ấy. Đó chính là phép lạ vậy.
TÓM LẠITrước
những trật tự lạ lùng trong vũ trụ thiên nhiên, trước việc sự sống tràn
đầy trên mặt đất, trước những luật luân lý in sâu trong tâm hồn mỗi
người, trước những phép lạ mà khoa học đành bất lực không thể tìm ra lời
giải thích hợp lý… Chúng ta phải công nhận có ĐẤNG TẠO HOÁ; CÓ THIÊN
CHÚA SÁNG TẠO. Chính Ngài đã tạo dựng nên vũ trụ và đã an bài chúng theo
một trật tự chung mà khoa học gọi là định luật thiên nhiên. Chính Ngài
là nguồn gốc của sự sống, đã tạo thành mọi sinh vật từ thấp kém đến cao
quý nhất và đã phú cho chúng những bản năng riêng để tự phát sinh và tồn
tại. Cũng chính Ngài là tác giả của bộ luật luân lý tự nhiên in sẵn
trong tâm trí con người từ khi sinh ra. Sau cùng, Ngài còn là tác nhân
của những trường hợp đặc biệt xảy ra ngoài trật tự tự nhiên mà khoa học
không thể giải thích được.
Như vậy, tuy khoa học không thể chứng
minh có Thiên Chúa một cách trực tiếp vì ngoài phạm vi nghiên cứu của
nó, nhưng khoa học vẫn có thể góp phần quan trọng trong việc tỏ rõ kỳ
công của Ngài. Chính nhờ những hiểu biết rõ ràng chính xác do khoa học
đem lại, con người dễ dàng sử dụng trí khôn suy luận để nhận ra có bàn
tay quyền năng, có trí khôn siêu việt đã xếp đặt và tạo dựng nên vũ trụ
vạn vật. Bàn tay và trí khôn ấy là của Thiên Chúa Tạo Hoá.
NEWTON,
một nhà thiên văn học lừng danh đã dám mạnh dạn lên tiếng quả quyết:
“Tôi đã nhìn thấy Thiên Chúa ở đầu thiên lý kính của tôi.” P. TERMIER
cũng cho biết: “Mọi khoa học đều chuẩn bị trí khôn ta nhận biết Thiên
Chúa hiện hữu. Hơn mọi người khác, nhà bác học dù chuyên về khoa nào
cũng thế, bao giờ cũng dễ dàng nhận thấy mọi vật đều biến chuyển, hỗn
hợp, khuyết điểm… có cùng đích và rất phức tạp. Do đó, nhà khoa học sẽ
dễ dàng có y tưởng về một Đấng Tạo Hoá bất biến, tự hữu, đơn thuần, hoàn
hảo, và là Đấng duy nhất an bài mọi sự. Chính vì thế người ta bảo: KHOA
HỌC DẪN ĐẾN THIÊN CHÚA. VŨ TRỤ VẬT CHẤT CHÍNH LÀ BÍ TÍCH CỦA THIÊN
CHÚA”.
THẢO LUẬN1) Bạn có nên tranh cãi với người vô tín về sự hiện hữu của Thiên Chúa không? Tại sao?
2)
Bạn nên làm gì khi có người yêu cầu trình bày giáo lý về sự hiện hữu
của Thiên Chúa để giúp họ thêm xác tín vào quyền năng của Ngài?
B. PHÚT HỒI TÂM1) LỜI CHÚA: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, thanh không kể ra sự nghiệp tay Ngài.” (Tv 18,2)
2) LỜI CẦU
Lạy
Thiên Chúa Cha Toàn Năng, Đấng tạo thành trời đất! Xin cho chúng con
thêm xác tín vê sự hiện hữu cua Chúa trong vũ trụ thiên nhiên va nơi mỗi
chúng con. Xin cho chúng con năng cầu xin Chúa ban thêm đức tin, giống
như người cha có đứa con bị quỷ câm ám đã thưa với Đức Giêsu: “Tôi tin!
Nhưng xin Thầy trợ giúp lòng tin yếu kém của tôi.” (Mc 9,24).
***
NĂM ĐƯỜNG LỐI CHỨNG MINH CÓ THIÊN CHÚA
CỦA THÁNH TÔMA TIẾN SĨ
Thánh
THOMAS D’ AQUIN (1225-1274), một vị tiến sĩ thần học rất nổi tiếng thời
trung cổ đã đề ra 5 đường lối chứng minh sự hiện hữu của Thiên Chúa:
1. Sự chuyển động của vũ trụ chứng minh có Thiên ChúaBất
cứ một vật nào đang chuyển động cũng phải lệ thuộc vào một động lực
khác. Chẳng hạn: một chiếc xe đang chạy là do người tài xế đã rồ máy và
điều khiển tay lái, một viên đạn bay ra khỏi nòng súng, một nồi nước
đang sôi lên sung sục là do tác dụng của lửa làm nóng nước lên. Vậy thì
khi nhìn vào vũ trụ, ta thấy có sự chuyển động của các hành tinh, thì
cũng phải có một động lực nào đó đã ảnh hưởng tới và làm cho chúng xoay
vần di chuyển trong không gian. Động lực ấy chính là Thiên Chúa.
2. Luật nhân quả chứng minh có Thiên ChúaNhìn
vào vũ trụ vật chất, ta nhận thấy có sự liên hệ mật thiết giữa vật này
với vật kia, vật có sau lệ thuộc vào một nguyên nhân có trước. Chẳng
han: có khói là đã phải có lửa, có con là đã phải có cha mẹ… Nếu cứ suy
luận lên mãi thì cuối cùng phải đi đến một nguyên nhân tự mình hiện hữu,
không bị lệ thuộc vào một nguyên nhân nào khác mới hợp lý. Nguyên nhân
tự hữu ấy là Thiên Chúa.
3. Sự sắp xếp trật tự minh chứng có Thiên ChúaKinh
nghiệm cho ta biết: sự may rủi bao giờ cũng đi đôi với vô trật tự và
hỗn độn. Chẳng hạn: Lấy 24 chữ cái A B C D… viết vào các mảnh giấy rồi
bỏ trong một chiếc hộp, sau đó lắc hộp và đổ các mảnh giấy ra. Không bao
giờ bạn đạt được thứ tự như cũ: A B C D… Trái lại, bất cứ vật gì ta
thấy được xếp đặt trât tự thì đều là kết quả của một trí khôn nào đó.
Chẳng hạn: nhìn xem một vườn cây ăn trái được sắp đặt thứ tự, cây cối
tùy loại mọc ngay hàng thẳng lối… ta quả quyết đã phải có một trí khôn
làm chủ vườn cây ấy. Cũng vậy, khi quan sát vũ trụ thiên nhiên, ai ai
cũng thấy có sự xếp đặt kỳ diệu từ cái cực to là các hành tinh, đến cái
cực nhỏ như nguyên tử; từ sự sống thấp nơi thảo mộc cây cối đến sự sống
phức tạp, trổi vượt nhất nơi loài người… Từ đó, họ sẽ đi đến kết luận:
Phải có một Đấng nào đó toàn năng siêu việt… đã an bài cho vạn vật hình
thành và phát triển hài hoà trật tự. Đấng toàn năng ấy chính là Thiên Chúa.
4. Bậc thang giá trị nơi vạn vật minh chứng có Thiên ChúaKhi
quan sát vạn vật trong vũ trụ ta thấy chúng có những bậc thang giá trị
khác nhau: Có vật thì không mấy thẩm mỹ, có vật lại rất mỹ miều và đáng
yêu, có vật ít hữu ích nhưng cũng có vật lại ích lợi rất nhiều, có vật
lại tầm thường, nhưng cũng có những vật thật là cao quý… Từ đó, ta suy
ra: phải có một vị nào đó có mọi điều tốt đẹp, cao quý nhất… làm tiêu
chuẩn cho vạn vật trong vũ trụ hữu hạn này. Đấng tuyệt đối ấy chính là
Thiên Chúa.
5. Cứu cánh của vạn vật minh chứng có Thiên Chúa
Cứu
cánh nghĩa là cùng đích, là mục đích chính yếu cuối cùng tuyệt đối. Mỗi
người chúng ta đều tự nhiên cảm thấy có ước muốn, khát vọng vô bờ bến.
Không một sự gì đã đạt đươc lại có thể làm ta thoả mãn và đem lại cho ta
hạnh phúc hoàn toàn. Do đó, bên trên mọi điều mong ước, về vật chất
cũng như tinh thần, ta ước muốn một điều gì bền bỉ, hoàn hảo, vĩnh viễn…
Sự hoàn hảo tuyệt đối mà con người mong muốn đạt tới ấy gọi là cứu cánh
của con người. Cứu cánh ấy không thể có trong vạn vật ở trần gian mà
chỉ có được ở nơi Thiên Chúa. Chính sự khát vọng tuyệt đối, sự hướng về
cứu cánh tuyệt đối ấy là bằng chứng cho thấy có Thiên Chúa. Thánh
Augustin nói: “Lạy Chúa, Chúa đã dựng lên con hướng về Chúa, nên tâm hồn
con luôn xao xuyến mãi cho tới khi nào con được nghỉ yên trong Chúa.”
TÓM LẠI
Với
trí khôn suy luận từ sự vận chuyển của các vật bị động đến một động lực
không bị động; từ các vật không thể tự mình mà có đến một Đấng Tự Hữu;
từ sự trật tự của vũ trụ đến một trí khôn toàn năng đã an bài xếp đặt;
từ các bậc thang giá trị của vạn vật đến một giá trị tuyệt đối vô hạn;
từ sự mong ước tuyệt đối đến một Đấng là Cứu Cánh mà vạn vật hướng về…
Tất cả đã chứng minh cho chúng ta một điều không thể chối cãi được. Đó
là: vũ trụ vạn vật đã do Thiên Chúa tạo dựng nên. Nhưng Thiên Chúa ở đây
vẫn chỉ là một vị Thiên Chúa trừu tượng, xa xôi, không có liên hệ bao
nhiêu với mỗi người chúng ta. Đây là Thiên Chúa của các triết gia mà
thôi. Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là một Thiên Chúa của tình thương,
liên hệ chặt chẽ với loài người và đã bày tỏ bản tính của Ngài qua các
tổ phụ, các tiên tri Cựu Ước, và qua chính Con Một Ngài là Đức Giêsu
Kitô thời Tân Ước. Tất cả những điều Thiên Chúa mặc khải ấy đã được chép
lại thành môt bộ sách gọi là Thánh Kinh. Do đó, ngoài việc dùng lý trí
suy luận để biết có Thiên Chúa, con người còn có bổn phận phải tìm hiểu
học hỏi Thánh Kinh để biết Chúa là ai, nhờ đó sẽ tỏ lòng biết ơn bằng
cách tôn thờ, cảm tạ, yêu mến, cầu xin và vâng Lời Ngài.
III. VỀ NGUỒN GỐC CỦA THIÊN CHÚAVẤN ĐỀ 10: Nói
rằng mọi vật đều do Thiên Chúa sinh ra theo nguyên tắc nhân quả: “Có
hậu quả thì phải đã có nguyên nhân sinh ra hậu quả đó.” Vậy thì cũng
theo nguyên tắc ấy áp dụng vào Thiên Chúa. Thiên Chúa do ai sinh ra?GIẢI ĐÁP
A. TRÌNH BÀY
1. ĐẶT VẤN ĐẾThuyết
duy vật chủ trương: Chỉ có vật chất mới thực sự hiện hữu, còn những yếu
tố siêu nhiên vô hình ta không thể nhìn thấy, không thể kiểm chứng thì
không có thật, mà chỉ là sự tưởng tượng, nhằm lừa bịp, dối gạt những
người ngu dốt. Riêng về vũ trụ vật chất ta đang sống đây vẫn luôn hiện
hữu và tự mình mà có, chứ không do thần thánh nào tạo dựng nên: “Vũ trụ
vĩnh cửu. Vì cần phải như thế mới hợp lý. Nếu không thì chẳng lẽ vạn vật
từ hư không xuất hiện hay sao? Chúng ta cần phải cho như thế vì chúng
ta không đặt vấn đề sáng tạo.”
Thực ra câu khẳng định trên không
phải là lời giải đáp mà chỉ là sự lẩn trốn vấn đề, không dám đối diện
với sự thực. Những người chủ trương thuyết duy vật này đã tiên thiên quả
quyết không có Thiên Chúa, rồi lại dựa vào quả quyết ấy để xây dựng một
kết luận khác: Vũ trụ vĩnh cửu, tự mình hiện hữu. Lập luận ấy thiếu
tính khoa học: quả quyết khi chưa kiểm chứng được bằng thí nghiệm. Hơn
nữa, ngày nay các nhà bác học chân chính đều công nhận vũ trụ không có
từ đời đời, nhưng đã xuất hiện cách đây khoảng 15 tỷ năm. Như thế, vấn
đề nguồn gốc vũ trụ lại được đặt ra: nếu vũ trụ có tuổi thì đã phải có
một lúc nào đó nó không hiện hữu như hiện nay. Vậy ai đã tạo dựng nên vũ
trụ, làm cho nó từ không ra có, hoặc từ một tình trạng hỗn mang vô trật
tự đến chỗ trở thành những hành tinh khổng lồ và vận hành theo những
quỹ đạo nhất định và chính xác tuyệt đối như ta thấy ngày nay?
JEAN-PAUL
SARTRE (1905-1980), một triết gia người Pháp thuộc phái hiện sinh vô
thần không chấp nhận có Thiên Chúa sáng tạo, đã tỏ ra lúng túng khi phải
giải thích sự hiện hữu của vũ trụ và con người. Vì không thể giải thích
được, nên ông đã coi sự hiện hữu ấy là điều phi lý: “Những gì đang hiện
hữu, trong đó có con người, đều phát sinh mà không có lý do, tiếp tục
sống vì hèn nhát, và chết vì đụng độ với một lực khác”. (J.P. Sartre :
La nausée).
Sartre không chấp nhận cách giải thích sự hiện hữu
bằng nguyên lý nhân quả: Mọi vật đều có nguyên nhân tối hậu là Thiên
Chúa khi ông viết như sau: “Vì như thế Thiên Chúa lại chính là nguyên
nhân cho mình hay sao? Đó lại là một điều vô lý nốt. Nói cách khác: Nếu
mọi vật đều do Thiên Chúa sinh ra. Vậy Thiên Chúa do ai sinh ra?
2. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀĐức
Tin công giáo cho biết: Mọi vật đều có nguyên nhân cuối cùng là Thiên
Chúa, còn chính Thiên Chúa không do ai sinh ra. Ngài là Đấng Tự Hữu (tự
mình mà có), và hằng hữu (vẫn luôn có).
Điều này không vô lý chút nào vì những lý do:
1)
Ý niệm nguyên nhân hậu quả chỉ có nghĩa khi áp dụng vào các loài thụ
tạo, là loài được tạo dựng nên: Đây là những loài vật sống trong thời
gian nên có trước có sau mà vật có sau phải tùy thuộc vào nguyên nhân có
trước. Nếu cứ truy tìm lên đến nguyên nhân cuối cùng sẽ dẫn tới một
Đấng tự hữu không do ai sinh ra mới hợp lý, vì không thể có vô cùng đối
với những loài vật là vật chất. Chẳng hạn: trông thấy một em nhỏ, người
ta tự nhiên suy luận em phải do cha mẹ sinh ra; cha mẹ lại phải do ông
bà nội ngoại sinh ra; ông bà lại do tổ tiên… cứ tính lên mãi thì thế nào
cũng sẽ tìm đến một đôi vợ chồng đầu tiên gọi là ông bà nguyên tổ. Ông
bà nguyên tổ chắc chắn không tự mình mà có, vậy thì phải tìm đến một
nguyên nhân luôn hiện hữu, không phải là con người, đã tạo dựng nên ông
bà nguyên tổ và lập ra quy luật: cha mẹ sinh con, con sinh cháu, cháu
sinh chắt… Nguyên nhân đầu tiên ấy chính là Thiên Chúa.
2) Có
thể áp dụng luật “nhân quả” với Thiên Chúa: “Thiên Chúa do ai sinh ra?”
không? Đức tin Công giáo trả lời dứt khoát: Không thể. Vì ý niệm nguyên
nhân hậu quả chỉ có thể áp dụng với những loài vật sống trong không gian
và thời gian. Còn Thiên Chúa là Đấng sáng tạo ra vũ trụ vạn vật có
không gian thời gian thì không lệ thuộc vào không gian thời gian do Ngài
sáng tạo. Tương tự như bác thợ mộc làm ra cái bàn, thì không ở trong
cái bàn và không lệ thuộc vào cái bàn do ông làm ra. Đối với Thiên Chúa:
Ngài hiện hữu vượt trên thời gian do Ngài sáng tạo. Nơi Ngài không có
trước có sau, nhưng luôn hiện hữu. Ngài là Đấng “có”, nghĩa là không có
bắt đầu, cũng không có kết thúc, nên không cần phải có nguyên nhân phát
sinh. Ngài tự hữu chứ không do ai sinh ra cả.
Theo Thánh TÔMA
tiến sĩ: Thiên Chúa là nguyên nhân cuối cùng của mọi tạo vật. Ngài sáng
tạo nên vũ trụ vạn vật không theo cách thức của loài thụ tạo và không lệ
thuộc thời gian. Nói cách khác, Thiên Chúa không phải là con gà đầu
tiên đã đẻ ra quả trứng thứ nhất. Ngài không phải là mắt xích thứ nhất
trong một chuỗi nguyên nhân hậu quả giống như mọi loài thuộc vật chất có
thời gian trước sau. Thiên Chúa chính là "nguyên nhân đệ nhất". Đệ nhất
ở đây phải hiểu theo nghĩa vượt trên tât cả vạn sự vạn vật và thuộc về
một đẳng cấp khác hẳn.
TÓM LẠIVạn
vật hiện hữu đều phải nại đến nguyên nhân cuối cùng là Thiên Chúa mới
hợp lý. Nhưng chính Thiên Chúa, do không phải là vật chất, nên không bị
lệ thuộc vào không gian và thời gian do Ngài tác tạo, mà vượt lên trên
một cấp bậc khác hẳn. Ngài có từ đời đời và không có lúc nào không có
Ngài. Một khi Thiên Chúa luôn hiện hữu thì sẽ không cần đặt vấn đề Ngài
do ai sinh ra nữa.
Ngoài ra, chính Thiên Chúa cũng đã mặc khải
chân lý này khi hiện ra với ông MÔSÊ trong bụi gai cháy mãi mà không
tàn, được tác giả Thánh Kinh tường thuật trong sách Xuất Hành như sau:
Thiên Chúa phán với ông Môsê: "Ta là Đấng Hiện Hữu." (Xh 3,14). Đấng
Hiện Hữu nghĩa là Đấng luôn có: Ngài đã hiện hữu thế nào trong quá khứ
thì cũng sẽ hiện hữu như vậy trong tương lai, giống như đang hiện hữu
trong hiện tại. Bất cứ vật gì đang có đều do Ngài sáng tạo. Mọi vật có
thể hiện hữu được là nhờ đã tiếp nhận được sự hiện hữu từ chính Đấng
Hiện Hữu là Thiên Chúa.
3. THẢO LUẬN1)
Theo bạn thì những lập luận về nguồn gốc của Thiên Chúa nói trên liệu
có thuyết phục được những người cứng lòng tin hay không?
2) Những lời giải đáp nói trên có giá trị thế nào đối với những người tin Chúa, nhưng đức tin còn non yếu?
3)
Chúng ta phải làm gì để những anh em lương dân sớm tin vào Thiên Chúa
do Đức Giêsu rao giảng để được tham phần vào ơn cứu độ đời đời?
B. PHÚT HỒI TÂM1) LỜI CHÚA: Thiên Chúa phán với ông Môsê: "Ta là Đấng Hiện Hữu." (Xh 3,14)
2) LỜI CẦULạy
Thiên Chúa, Đấng sáng tạo trời đất muôn vật, đặc biệt dựng nên loài
người chúng con! Xin thêm đức tin cho chúng con là con cái Chúa để chúng
con ngày một xác tín vào sự hiện hữu của Chúa và nhận được ơn cứu độ do
Chúa tặng ban qua Con Một Chúa là Đức Giêsu Kitô. Xin đổ Thánh Thần
Tình Yêu giúp chung con đi theo con đường khiêm nhường yêu thương và
phục vụ của Chúa Giêsu, hầu sau này chúng con sẽ gặp được Chúa Ba Ngôi
hằng hữu trên Nước Trời. AMEN.