Làm thế nào chúng ta có thể giải thích rằng Giáo hội là một mầu nhiệm khôn tả, nhưng cũng là một tổ chức hữu hình hiện diện trên thế giới? Các Nghị phụ của Công đồng Vatican II đã phải đối mặt với thách thức này khi họ tranh luận về một văn bản về chủ đề Giáo hội - một văn bản mà cuối cùng đã trở thành Hiến chế Tín lý Lumen Gentium - Ánh sáng Muôn dân.
Công đồng đã kế thừa, từ các nghiên cứu Kinh thánh và giáo huấn của Giáo hội trong những thập kỷ gần đây, quan niệm phong phú về Giáo hội là Nhiệm thể của Chúa Kitô. Khái niệm này đã giúp chuyển tải sự hiện diện huyền nhiệm nhưng thực sự của Chúa Kitô trong Giáo hội. Tuy nhiên, việc coi các tín hữu chỉ là “thành viên” của một thân thể cũng gây khó khăn cho việc diễn tả cá tính và cá tính riêng biệt của mỗi người là thành phần của Giáo hội. Suy cho cùng, chúng ta có xu hướng không nghĩ rằng các bộ phận của cơ thể có khả năng tự chủ. Hơn nữa, vì thân xác là một cái gì đó xác định, và Đức Piô XII đã dạy rằng Giáo hội Công giáo là Nhiệm thể của Chúa Kitô, nên khái niệm này gây khó khăn cho việc diễn tả mối quan hệ của Giáo hội với các Kitô hữu khác cũng như với tất cả mọi người.
Trong nỗ lực diễn đạt rõ ràng hơn bản sắc của Giáo hội, Giám mục người Bỉ Emile-Joseph De Smedt đã lặp lại lời phê bình mà ông đã đưa ra trong cuộc tranh luận trước đó về Mặc khải. Phát biểu vào ngày khai mạc cuộc tranh luận liên quan đến văn bản về Giáo hội, ông lưu ý những yếu tố có giá trị có trong bản dự thảo ban đầu, nhưng cho biết tài liệu này còn thiếu sót “về nhiều mặt”.
Trước hết, như ông khẳng định, văn bản trình bày đời sống của Giáo hội như một “chuỗi chiến thắng của Giáo hội chiến đấu”. Ngài tiếp tục, một phong cách như vậy hầu như không phù hợp với “tình trạng thực sự của Dân Chúa”, mà Chúa Giêsu khiêm nhường đã gọi là “đàn chiên nhỏ” (Lc 12:32). Thứ hai, ông lưu ý, văn bản rơi vào sai lầm của chủ nghĩa giáo sĩ trị, ưu tiên quyền lực của giáo hoàng, giám mục và linh mục trong khi phần còn lại của những người theo đạo Thiên chúa, ở dưới đáy của cấu trúc kim tự tháp “truyền thống”, chủ yếu là thụ động.
de Smedt lập luận, giải pháp cho cái nhìn méo mó như vậy về Giáo hội là hình ảnh Giáo hội là Dân Thiên Chúa. Ông khẳng định, trong bản sắc này, tất cả các thành viên của Giáo hội đều có chung sự bình đẳng cơ bản. Ngài lưu ý thêm, thẩm quyền trong Giáo hội là một sự phục vụ khiêm tốn nhằm vào sự phát triển và hoàn thiện của Dân tộc này. Ông kết thúc bài phát biểu của mình bằng lời kêu gọi gửi tài liệu trở lại ủy ban để sửa đổi. Một lần nữa - đối với bài phát biểu trước đây của ông về Mặc khải thiêng liêng - lời kêu gọi thay đổi quan điểm của ông đã nhận được tràng pháo tay, một điều hiếm thấy trong các kỳ họp Công đồng.
Trong thời gian diễn ra Công đồng, ‘Dân Chúa’ sẽ trở thành một phương cách quan trọng hơn bao giờ hết để thể hiện đầy đủ hơn căn tính của Giáo hội, nhằm bổ sung cho việc trình bày Giáo hội như Thân thể Mầu nhiệm của Chúa Kitô. Vào mùa hè năm 1963, trong một cuộc họp nhằm điều phối công việc của Công đồng, Đức Hồng y Leo Josef Suenens người Bỉ đã đề xuất rằng, sau chương giới thiệu về ‘Mầu nhiệm Giáo hội’, Công đồng có thể dành ngay một chương cho ‘Mầu nhiệm Giáo hội’. Dân Chúa' nói chung. Sự thay đổi này có nghĩa là trước khi nói về các nhóm thành viên cụ thể của Giáo hội, chẳng hạn như phẩm trật và giáo dân của Giáo hội, trước tiên Công đồng sẽ nói sâu hơn về căn tính chung của tất cả các thành viên của Giáo hội.
Sự thay đổi như vậy không phản ánh ảnh hưởng của chỉ một hoặc một vài chủ thể trong Hội đồng. Như Uỷ ban Giáo lý sẽ chỉ ra vào mùa hè tới, khi giải thích lý do đằng sau chương mới, hơn 300 Nghị phụ Công đồng đã yêu cầu đưa một chương dành riêng cho Dân Chúa vào tài liệu về Giáo hội, và không có Nghị phụ nào hoàn toàn phản đối. Nó. Như Đức Giám mục người Đức Joseph Schröffer đã lưu ý, khi phát biểu nhân danh 69 giám mục chủ yếu nói tiếng Đức, điều thích hợp là hiến pháp trước hết đề cập đến Dân Thiên Chúa như một tổng thể, và sau đó đến hệ thống phẩm trật, kẻo văn bản tạo ấn tượng rằng các giám mục chủ yếu quan tâm đến bản thân họ. Hơn nữa, như Đức Giám mục Schröffer tiếp tục bình luận, khái niệm 'Dân Chúa' đã bám rễ sâu trong Kinh thánh và Phụng vụ, đồng thời gợi lại những lời trong Bức thư thứ nhất của Thánh Phêrô, trong đó đề cập đến các Kitô hữu như “một chủng tộc được tuyển chọn, một hoàng gia”. chức linh mục, một dân tộc thánh thiện, một dân tộc riêng của Ngài” và nói với chúng ta: “Trước đây anh em ‘không phải là dân tộc’ nhưng bây giờ anh em là dân Chúa.”
Khác với khái niệm “Nhiệm thể Chúa Kitô”, hình ảnh “Dân Thiên Chúa” thể hiện rõ hơn chiều kích lịch sử của Giáo hội và sự hiện diện của Giáo hội trong thế giới. Hình ảnh “Dân Chúa” cũng tốt hơn trong việc thể hiện sự hiệp nhất giữa các mục tử và tín hữu, trong đó hệ thống phân cấp của Giáo hội tồn tại để phục vụ toàn thể Dân Chúa. Hơn nữa, khái niệm “Dân” giúp dễ dàng hơn cho thấy những người không Công giáo, theo những cách khác nhau, có thể liên quan đến Giáo hội như thế nào, ngay cả khi họ không phải là một phần của Giáo hội theo nghĩa chặt chẽ.
Với khuôn khổ Kinh thánh này, văn bản Chương 2 của Lumen Gentium truyền tải cả căn tính đặc biệt của Giáo hội cũng như sự cởi mở của Giáo hội đối với tất cả mọi người. Trong khi thuật ngữ “Dân Thiên Chúa” gợi lên kế hoạch Cựu Ước của Thiên Chúa, thì Dân Thiên Chúa trong Chúa Kitô là một Dân “gồm những người Do Thái và dân ngoại”, được hợp thành một nhờ giao ước mới của Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần. Qua căn tính siêu nhiên này, Dân Chúa, dù đôi khi “có thể trông giống như một đàn chiên nhỏ”, có một hướng cần thiết hướng tới toàn thể nhân loại. Dân tộc này, ngay cả khi hiện diện với số lượng nhỏ ở một nơi nhất định, “dù sao cũng là hạt giống lâu dài và chắc chắn của sự hiệp nhất, hy vọng và ơn cứu độ cho toàn thể nhân loại”.
Chương này tiếp tục mô tả cách toàn thể Dân Thiên Chúa, qua bí tích rửa tội và thêm sức, chia sẻ sứ mạng linh mục và tiên tri của Chúa Kitô như thế nào. Sứ mệnh vương giả chung cho mọi tín hữu sẽ được đề cập cụ thể hơn trong chương sau về giáo dân, ở đoạn 36. Ngay từ đầu Công đồng, rút ra từ lời dạy của Thánh Thomas Aquinas và Đức Giáo hoàng Piô XII, Công Đồng đã muốn nhấn mạnh đến việc toàn thể Dân Chúa, qua phép rửa, được thực sự chia sẻ sứ mệnh của Chúa Kitô như thế nào.
Công việc của Công đồng sẽ dành một vị trí trung tâm hơn cho việc nhìn nhận sự thánh thiện của phép rửa hiện diện nơi tất cả các tín hữu. Chẳng hạn, Giám mục người Chile Manuel Larraín Errazuriz, nhân danh hơn 60 giám mục Mỹ Latinh, đã kêu gọi Công đồng đưa vào phần mô tả sứ mạng linh mục, ngôn sứ và vương giả của Dân Chúa vào cốt lõi của nhiệm vụ Công đồng. mô tả về Giáo Hội. Nếu không, như ông đã nói, việc mô tả Giáo hội sẽ quá trừu tượng và xa rời lịch sử.
Trong khi thừa nhận phẩm giá cao cả này chung cho tất cả những người đã được rửa tội, Lumen Gentium cẩn thận thừa nhận sự đa dạng hiện diện bên cạnh sự hiệp nhất. Phản ánh mối quan tâm của các Nghị phụ Công đồng, văn bản cẩn thận phân biệt các con đường bổ sung cho chức linh mục phẩm trật của các thừa tác viên và chức linh mục chung mà mỗi tín hữu sở hữu. Chương này cũng công nhận nhiều ân sủng và đặc sủng khác mà Chúa Thánh Thần dùng để xây dựng Giáo hội.
Sự hiện diện của những ân sủng to lớn như vậy nơi Dân Thiên Chúa không tách Dân này ra khỏi phần còn lại của nhân loại, nhưng đúng hơn là dẫn Dân này vào sứ mạng hướng tới toàn thể nhân loại. Bản văn tiếp tục khẳng định rằng Dân này, “trong khi vẫn là một và chỉ một, phải trải rộng khắp thế giới và phải tồn tại trong mọi thời đại”, để thực hiện ý muốn của Thiên Chúa. Các đoạn riêng biệt tiếp tục mô tả những cách khác nhau trong đó người Công giáo và các Kitô hữu không Công giáo hình thành nên một phần của Giáo hội, cũng như cách thức những người không theo đạo Thiên Chúa - người Do Thái, người Hồi giáo, những người tìm kiếm Thiên Chúa và tất cả những người “cố gắng sống một cuộc sống tốt đẹp”, bởi hành động huyền nhiệm của ân sủng - có liên quan đến Dân này.
Sau khi mô tả những cách thức khác nhau trong đó thuật ngữ “Dân Thiên Chúa” bao trùm toàn thể nhân loại, Chương 2 của Lumen Gentium kết thúc bằng một đoạn dành riêng cho chủ đề truyền giáo. Nhiều Nghị phụ Công đồng đã nhận ra rằng hoạt động truyền giáo gắn liền với cốt lõi căn tính của Giáo Hội và cần có một vị trí trung tâm trong hiến pháp. Như Đức Tổng Giám mục Joseph Mark Gopu – vị giám mục đầu tiên của Hyderabad, Ấn Độ – đã lưu ý, Công đồng cần phải cho thấy Giáo hội, luôn luôn và một cách nổi bật, rõ ràng đang ở trong tình trạng truyền giáo. Chương này kết thúc với ước muốn “toàn thế giới có thể trở thành Dân Thiên Chúa, Thân Mình Chúa và Đền Thờ Chúa Thánh Thần”. Với ước muốn này, Công đồng biểu lộ Giáo hội một cách sâu sắc hơn bao giờ hết như một Dân đặc biệt được Chúa Thánh Thần xức dầu và được đồng hóa với Chúa Kitô, một Dân tộc vươn tới toàn thể nhân loại.
Father Joseph Thomas