Bạn
thân mến
Những trang chữ nhỏ
bé này để bạn kể và nghe kể về Thầy Giêsu và các môn đệ.
“Thầy ở với các con
mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Nghe
Giêsu kể truyện Thầy sống bên trò. Nghe các môn đệ kể lại những giây phút sống
bên Thầy, những tháng ngày cùng Thầy rong ruổi trên muôn nẻo đường, và đã… ngỡ
ngàng trước Đấng Vô Hình.
Thế
hệ môn đệ thứ nhất:
Môn
đệ Phêrô tuyên xưng Thầy có lời ban sự sống (Ga 6,68).
Môn
đệ Gioan, người môn đệ Chúa yêu kể rằng: điều chúng tôi đã chiêm ngưỡng, và tay
chúng tôi đã chạm đến, đó là Lời sự sống (1 Ga 1,1).
Gioan
quả quyết: điều đã được tạo dựng ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng
cho nhân loại (1 Ga 1,4).
Thế
hệ môn đệ của thầy Giêsu năm 2010:
Những
người môn đệ diễm phúc vì không thấy mà tin (Ga 20,29)
Chúng
ta được sai đi từ giữa lòng Hội Thánh, vững vàng như thấy Đấng Vô Hình
(Dt 11,27).
Là
môn đệ của Thầy Giêsu, là người của Hội Thánh hôm nay, dù bạn là ai và thuộc
bất cứ thành phần nào trong Hội Thánh của Thầy.
Hội
Thánh tại gia, giáo xứ, giáo hạt và giáo phận.
Bạn
đã nghe Thầy nói và nói với Thầy, truyện được kể và không chỉ kể lại mà loan
báo về biết bao điều kỳ diệu Người đã thực hiện giữa chúng ta, những chuyện diễn
ra trong đời sống hằng ngày, làm thành câu chuyện Giêsu, truyện kể về
Giêsu trên đường LBTM, ngang qua bóng dáng và bước chân của từng người
môn đệ: giữa những nhóm thợ đang xây dựng trên các công trường, những người
công nhân trong các xí nghiệp, giữa những người nông dân trên nương rẫy, và
ngay cả giữa các em học sinh, truyện được kể từ trong nhà thờ, ra tới
ngoài khuôn viên và khắp phố xá ruộng đồng.
…
Lời Chúa lan tràn khắp miền… (Cv 13,49)
GIÊSU
kể
Thiên
Chúa yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một (Ga 3,16)
Một
người Cha có 2 người con (Lc 15,11-31)
Truyện
kể về Thiên Chúa với con người mà cứ như một câu chuyện đang diễn ra trong đời
thường.
Đứa
con thứ thì hoang đàng, gom hết phần gia tài của mình ăn chơi trác tang.
Người
anh cả ở nhà bao nhiêu năm hầu hạ Cha, không bao giờ trái lệnh Cha.
Thoạt
nghe ai cũng nghĩ đứa con thứ hoang đàng đáng trách làm sao, còn người anh cả
dễ thương biết mấy.
Những
tháng ngày con thứ đi hoang, trong nhà chỉ có Cha và người anh.
Khi
đứa em đi hoang trở về, cha cho mở tiệc mừng… trong nhà có Cha và có em. Người
anh chẳng những không chịu vào nhà mà còn lên giọng mỉa mai:
“Thằng
con của Cha đó… Cha
nói như nài nỉ: “Em con đây…”
Câu
chuyện được kể là câu chuyện người Cha nhân hậu, và cũng là người Cha cô đơn giữa
hai người con. Khi trong lòng của Cha là con cái thì:
* Trong lòng của con
thứ là chốn ăn chơi, có đáng gọi là con không.
* Và trong lòng của
người anh cả là con dê con để vui với bạn bè, khoe với bạn bè, không thấu tình
Cha, cũng chẳng đoái hoài gì tới em.
Một
người anh như thế này có thể coi là bất hiếu và bất nghĩa không?
Nơi
lòng của người Cha nhân hậu thì không có khoảng cách giữa Cha và các con, nhưng
nơi lòng của các con thì có một khoảng cách nhất định giữa con với Cha.
Anh
cả suốt bao năm tháng hầu hạ Cha, nhưng hình như gần mặt mà cách lòng.
Con
thứ hoang đàng xa mặt và cũng cách lòng. Và một khoảng cách giữa anh em với
nhau, một khoảng cách đáng ngại, khoảng cách này có thể trở thành vực thẳm
không ai qua lại được, vì thế người Cha ấy vẫn cứ cô đơn giữa hai loại người
con này?
Cuối
cùng câu chuyện được kể hình như dừng lại ở khoảng cách, những khoảng cách vẫn
đang diễn ra. Giêsu kể tiếp về khoảng cách từ trong nhà ông phú hộ ra tới ngoài
cổng (Lc 16,19-31).
Cũng
có thể là khoảng cách từ nhà thờ tới những gia đình đang sống ngoài kia, ngoài
cổng nhà thờ:
khoảng
cách giữa những người đang dự bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể với biết
bao nhiêu người anh chị em tôi đang đói khát Lời Chúa và Thánh Thể!!!
Những
khoảng cách có thể sẽ trở thành vực thẳm không ai qua lại được (Lc 16,26).
Không
ai nghĩ mình là kẻ bất hiếu trong nhà Cha, không ai nghĩ mình là kẻ bất nghĩa
giữa anh em, nhưng ít ai nghĩ điều Cha chúng ta nghĩ, ít ai muốn điều Cha
chúng ta muốn, ít ai ôm ấp những gì Cha chúng ta đang ôm giữ canh cánh trong
lòng.
Cha
nói: “Tất cả những gì của Cha đều là của con”
Người
Con Một yêu dấu thưa: “Tất cả những gì Con có đều là của Cha” (Ga
17,10).
Chúa
Cha đang chờ đợi cùng một lời đáp của con cái hôm nay.
Một
lời đáp trong Giêsu, Người con yêu dấu của Cha, đầy tràn ân nghĩa và sự thật.
Môn
đệ lắng nghe và làm chứng
Phần
chúng tôi, chúng tôi đã chiêm ngưỡng và làm chứng rằng Chúa Cha đã sai Con của
Nguời đến làm Đấng Cứu Độ thế gian… (1 Ga 4,14).
Câu
chuyện Giêsu tại Kontum
Truyện
được kể trong Thánh Thần, một câu chuyện đang diễn ra và cũng là câu chuyện của
mọi người, vì thế tại ĐẠI HỘI LOAN BÁO TIN MỪNG TOÀN QUỐC, anh chị em Kontum đã
mời cả hội nghị cùng hoà mình vào câu chuyện trong lời ca khẩn nguyện cùng với tiếng
coong chiêng: lạy Thần Khí của Đức Chúa Trời, lạy Thần Khí của chính Ngôi Lời,
xin Ngài hãy đến…
Câu
chuyện được mở đầu với phần tham luận, và người trình bày là một chú giáo phu
người Jarai đã quen đi vào rừng già, dù biết rằng rừng già có cọp dữ:
…
Tình yêu của Chúa thôi thúc chúng con ra đi làm chứng cho Chúa. Chúng con
sẵn sàng chấp nhận tất cả: mệt mỏi, gian truân, khốn khó, bị xua đuổi, bị chống
đối… và sau cùng là để làm chứng cho tình yêu Chúa.
Lời
mời gọi của Chúa và Hội Thánh đã và đang mời gọi chúng con lên đường LBTM.
Chúng con tha thiết muốn LBTM, noi gương hai Thánh Tông Đồ Phêrô và Phaolô…
Người
tiếp theo kể chuyện Giêsu ngang qua chính cuộc đời của mình: … khi còn là chàng
trai ngoại đạo, may mắn gặp một cô gái ngoan đạo… sau 6 năm ở rể, năm 1980, tôi
đưa vợ con về sinh sống tại quê mình là nơi chưa có ai theo đạo… Quê tôi lúc đó
nằm giữa 2 xã AJUN và Kon Tơng. Chân ướt chân ráo về lại quê nhà làm ăn, coi
như tất cả từ con số không, gia đình chúng tôi bắt tay vào gây dựng một cuộc
sống mới, cùng nhau khai phá ruộng rẫy. Tuy nhiên, đưa gia đình về lại quê
nhà lần này, ao ước lớn nhất của chúng tôi là phải làm một điều gì đó để bà con
trở thành con cái Thiên Chúa, phải lo sao để con trẻ quê mình được học hành… ngoài
ra chúng tôi cũng thường hay giúp đỡ những ai lâm cảnh yếu đau bệnh tật tìm đến
với chúng tôi, từ đó chúng tôi được nhiều người thương mến, coi chúng tôi như
anh em. Chẳng bao lâu có người nhờ chúng tôi dạy học cho con em họ, đám học trò
đầu tiên là những trẻ ban ngày đi chăn bò, giữ em, hoặc phụ giúp cha mẹ làm
ruộng rẫy. Gia đình chúng tôi đã nhận lời dạy cho các em mỗi tối từ 6 giờ đến 8
giờ. Một thời gian sau có vài người hỏi muốn theo đạo, và tôi đã dạy giáo lý
cho ho từ 9 giờ đến 11 giờ đêm, từ 11 giờ đến nửa đêm, chúng tôi lại giúp đỡ
những người đau ốm cần chăm sóc, và số người theo đạo từ vài 3 người lên đến 30
người, giờ đã trên 2000 và nơi đây đã trở thành một họ đạo thuộc Giáo xứ Châu
Khê.
…
Hiện nay tôi là tổ trưởng nhóm 12, một lần nữa chúng tôi lại được sai đến huyện
Kơ Bang, huyện Kon Chro, và huyện Đắc Pơ là những vùng đất nhiều gai góc.
Người
thứ ba đứng ra kể chuyện là một nữ tu trẻ, một cô gái được giới thiệu là mang 3
giòng máu: Banar, Jrai và Sêđăng, thực ra chị muốn nói như Thánh Phaolô: Tôi đã
trở nên Do Thái với người Do Thái…
Chúng
ta hãy nghe chính chị kể lại:
…
Biết mình sẽ đượ̣c đi sứ vụ trên vùng truyền giáo Tây Nguyên, lòng tôi lo âu,
vui sướng lẫn hồi hộp. Việc đầu tiên của tôi là chuẩn bị hành trang cho mình,
ngoài một thùng sách tài liệu về các kiến thức thần học căn bản, tôi còn tậu
thêm một thùng sách về sư phạm giáo lý, giáo án giáo lý các khối, cử hành phụng
vụ, kỹ năng sinh hoạt… Tôi tự tin với hai thùng sach đầy nhóc và lên đường.
Trên chuyến xe 45 chỗ ngồi, tôi thả hồn mình vào những ước mơ, những dự tính
cho tương lai. Nếu giúp giáo lý viên, tôi sẽ…, nếu dạy giáo lý, tôi sẽ…, nếu
giúp ca đoàn, tôi sẽ… tôi sẽ và tôi sẽ… tất cả trở nên hoàn hảo trong tôi.
Đến
cộng đoàn Hàm Linh Gialai, nghỉ ngơi vài ngày, tôi được Đức Giám mục Micae
Hoàng Đức Oanh đưa đi thăm một vòng các trung tâm truyền giáo của Giáo phận và
một vài nhà nguyện của anh chị em dân tộc Jrai ở Gialai. Ngài nói với tôi:
Việc
đầu tiên trong sứ vụ truyền giáo của con là học tiếng dân tộc bản địa.
Thưa
Đức Cha, con đi học ở đâu? – Vào làng
Dầu
vậy, tôi vẫn được học tiếng Jrai với cô giáo người Jrai và một vài anh chị em
tu sĩ khác. Học để biết cách đọc, cách viết còn học để biết nói thì đi vào làng
thôi. Ngày nào không học, tôi xách túi lân la vào làng tiếp cận với anh chị em
dân tộc Jrai, người biết Chúa cũng như chưa biết Chúa. Ban đầu, tôi sợ và ngại
nữa nhưng có lẽ sức mạnh của sứ vụ giúp tôi lì ra. Tôi cùng đọc kinh chung với
anh chị em Jrai, học cách cầu nguyện, chia sẻ Lời Chúa theo lối sống, văn hoá của
anh chị em. Khi đã có chút ít vốn từ, tôi đi sâu hơn vào những làng xa xôi, hẻo
lánh làm quen, thăm hỏi, cùng ăn cơm, uống rượu ghè với anh chị em,… Cứ thế,
hai năm trôi qua, tôi đi cũng khá nhiều làng và quen biết nhiều người. Sống
“lang thang”, tôi bị cuốn hút vào ước mong làm sao để sống hoà nhập với anh chị
em, nói chuyện, chia sẻ cuộc sống với anh chị em bằng chính văn hoá và ngôn ngữ
của anh chị em đến chẳng còn nhớ mình “đi truyền giáo” nữa. Tôi từng có tham
vọng như thánh Phaolô “với người Do Thái, tôi trở nên người Do Thái, để
chinh phuc người Do Thái (1 Cr 9,20). Nhưng rồi, tôi vẫn là tôi, vẫn
chỉ sống bên lề cuộc sống của anh chị em dân tộc.
Cuối
cùng cha trưởng ban LBTMGPKT đã đứng ra kết thúc câu chuyện hôm nay.
Nói
kết nhưng thực ra lại là lời mở vì câu chuyện Giêsu vẫn đang diễn ra, và lúc
nào cũng cứ như khởi đầu
Lời
Chúa lan rộng…
Hôm
vừa rồi, con theo cha sở đi thăm kẻ liệt, trong đó có cả Sr. Thu. Đó là vùng Tư
Lương, trước kia là họ Tư Lương có khoảng 40 gia đình, thuộc Giáo xứ Chợ Đồn,
nhưng nay chỉ con duy nhất có 1 bà cụ trên 70 tuổi cùng với 2 ông bà cũng gần
đất xa trời.
Sau
giờ khuyên nhủ, cha sở xin Sr. Thu dạy dỗ chỉ bảo thêm cho 2 ông bà vì tất cả
đã quên hết rồi, một ông nhà kế bên nghe tin có người đến thăm 2 ông bà nên
cũng qua coi và cho biết mình cũng có đạo, người này hỏi người kia, đã có thêm
9 người nữa …
Lời
Chúa vẫn lan rộng…
Mời
bạn kể tiếp câu chuyện Giêsu…