Không phải giàu có hay cao sang tạo ra hạnh phúc nhưng chính là sự tĩnh lặng và công việc.

Thomas Jefferson
Truyen-tin.net - Sơ lược dữ kiện:

  • ♥ Tiểu sử Các Thánh: 272
  • ♥ Các Bài đọc thánh lễ: 772
  • ♥ Văn hoá, nghệ thuật: 1154
  • ♥ Tin tức, chuyên đề... 15067
  • ♥ Thư viện hình ảnh: 6916
  • ♥ Suy niệm Lới Chúa: 784
  • ♥ Video: 2269
  • ♥ Tài liệu tham khảo: 780

... cùng những sưu tập khác.
tt
Laudetur Jesus Christus - Ngợi khen Chúa Giêsu Kitô NewsFeed
-
TÀI LIỆU » Nghiên Cứu
Back TRỞ LẠI (Cập nhật: 19/02/2011 12:00:00 SA)
A  A  A
Trung tâm Truyền giáo Kontrang cho người Sơđang (1)
KONTRANG[1], cửa ngõ vào vùng cư dân Sơđang nằm về phía bắc thị xã KONTUM ngày nay[2]. Vào đầu năm 1852, Đức cha STÊPHANÔ CUENOT THỂ, ĐẠI DIỆN TÔNG TOÀ, cai quản Địa phận Đông Đàng Trong (đổi thành Địa phận Quinhơn vào năm 1924) đã chỉ thị cho Cha Dourisboure ÂN, một linh mục thừa sai trẻ tuổi, hăng say, đạo đức đang khám phá vùng Truyền giáo Tây Nguyên dân tộc, xây dựng nền tảng vững chắc cho công cuộc truyền giáo nơi cư dân thiểu số vùng cực bắc Tây Nguyên. Vùng Truyền giáo này cực kỳ khó khăn, nguy hiểm và phức tạp.

Rao giảng Tin Mừng nơi một vùng rừng núi hoang dã, càng về phía bắc, mặt bằng càng cao, sừng sững những dãy núi với đỉnh chót vót như Quần Sơn Ngọc Linh (cao 2593 mét), Ngọc Ang (2750 mét), Ngọc Bun… Giữa các dãy núi này, nhiều vùng do hiện tượng địa chấn sụt đất đã tạo nên các bình nguyên nhỏ với những sông suối theo cánh rẽ quạt, tụ lại thành sông PƠKÔ và phụ lưu PƠXI, chảy theo hướng bắc nam, đến PLEI KRONG hợp lưu với dòng sông DAK-BLA từ đông bắc chảy xuống.

Đôi dòng sông PƠKÔ và DAK-BLA hợp lưu và tiếp tục chảy về hướng nam đổ vào sông SESAN và hoà dòng vào sông MÊKÔNG nằm phía tây các cư dân Tây Nguyên của Việt Nam.

Vùng Truyền giáo cho cư dân bắc Tây Nguyên rộng chừng 5-6.000 cây số vuông, cây cối rậm rạp như một tấm thảm xanh, nhấp nhô gợn sóng. Sông suối ngoằn ngèo, khi ẩn khi hiện từ bắc xuống nam, tựa như những đường chỉ trắng trải dài trên khung thảm xanh mênh mông như vô tận ngút ngàn. Thỉnh thoảng một khóm nhà sàn lợp bằng lá rừng, như những chiếc lá tre nghiêng nghiêng, chênh vênh trên sườn đồi hay mất hút dưới tàn cổ thụ. Cuộc đời ở đây, có người  tưởng như êm đềm, bất động và câm lặng trôi qua, nhường cho tiềng chim hót hoặc tiếng xào xạc của  cành lá, nhưng kỳ thực là một nơi biến động và phức tạp.

Nhiều dã thú như: cọp beo, trâu rừng, voi, cá sấu, rắn rít… tự do tranh sống một mất một còn trong vương quốc của chúng. Vùng đất giáp tam biên, còn mập mờ, phức tạp, cũng là nơi tranh chấp, giành  giật của các thế lực ngoại bang. Công cuộc truyền giáo cũng bị quay cuồng trong cơn lốc tham vọng của các nước mạnh. Chưa kể, đây cũng là nơi hội tụ của  những con buôn quốc tế mua bán nô lệ, xào xáo giữa các buôn làng…

Tuy nhiên, với đức tin kiên vững của một dân tộc chân tình chất phác và trung thành, đã từng tôi luyện trong cuộc sống giữa cảnh vật thiên nhiên hùng vĩ, chống chọi với dã thú, với thời tiết cay nghiệt và cả những sức ép chung quanh, người Kitô hữu Sơđang luôn sống anh hùng trong lòng tin vào ĐỨC KITÔ.

KONTRANG là điểm đầu tuyến cho công cuộc truyền giáo vùng Sơđang đầy khó khăn. Khởi nguồn từ một linh mục thừa sai trẻ tuổi, như hạt cải gieo vào lòng đất, mục nát và từ từ vươn cao thành một cây to lớn, đến nỗi “CHIM TRỜI” đến đậu được (x. Mt 13,31), hoặc tựa như nắm men làm cho dậy cả vùng truyền giáo (x. Mt 13,33).

Chúng tôi xin lần lượt trình bày:

I. Các chi người Sơđang - Bối cảnh lịch sử vào thế kỷ thứ XIX

II. KONTRANG - Điểm truyền giáo vào thời sơ kỳ (1852-1857)

Con người linh mục tiên khởi: Cha DOURISBOURE ÂN

III. KONTRANG - Thời kỳ thử thách (1857-1884)

IV. KONTRANG - Trung tâm Truyền giáo với thời kỳ triển vọng (1884-1905)

Chuẩn bị thành lập các địa sở

V. Hình thành - Phát triển các địa sở (1905-1975)

A. KONTRANG MƠNEI

B. KON-HƠRING

C. DAK- KƠNA và các địa sở khác

VI. Thời kỳ quá độ (1975-1997) 

***

CHƯƠNG MỘT

CÁC CHI NGƯỜI SƠĐANG

BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀO THẾ KỶ XIX 

Các chi người Sơđang cũng không thay đổi nhiều từ thế kỷ XIX đến nay. Tuy nhiên, bối cảnh lịch sử của vùng này rất phức tạp, ảnh hưởng không ít đến nơi cư trú, đơn vị buôn làng nay có lúc tách nhỏ ra, chen lẫn những buôn làng khác, hay dồn lại thành một buôn làng mới, nhất là do ảnh hưởng mặt an ninh, xã hội và đời sống tôn giáo.

I. CÁC CHI NGƯỜI SƠĐANG

1. Dân tộc người Sơđang có nhiều chi chính sau đây

* Chi MƠNAM (có người gọi Bơnam), TƠDRA: cư trú ở những vùng cao chung quanh núi NGỌC-LINH, từ Dak-Tô qua Dak-Glây, bắc thị xã Kontum đến Kon Plong.

* Chi CADONG bị phân tán mạnh mẽ nhất: có thể ban đầu nhóm này ở quanh núi NGỌC LINH, chạy từ huyện TRÀ MY (Quảng Ngãi) đến Bắc Kon-Plong qua SƠN HÀ (Quảng-Ngãi). Sau đó, vì sức ép của người HRÉ và người CHÀM, một phần chạy sang cư trú ở huyện SA-THẦY và Dak-Glây ngày nay.

* Chi SƠTENG và HÀLĂNG: một điểm xa nhất, tận phía tây cùng với chi BRÂU bên HẠ-LÀO. Trong những thế kỷ XVIII-XIX do bị người LÀO, nhất là  người XIÊM uy hiếp, nên có một bộ phận người SƠTENG lùi về phía đông chiếm vùng cao. Bộ phận lưu lại là tổ tiên người HÀLĂNG hiện nay. Lúc đầu, họ cam chịu thần phục người LÀO, nhưng sau không chịu nổi, người XIÊM phải chạy sang địa phận Việt Nam ở SA-THẦY, DAK-GLÂY bên này dãy núi MANG-DRAI, ngày nay họ còn cư trú. Từ đó, một bộ phận tới vùng thị xã KONTUM ở [3]

2. Năm chi này có những nét chung: Họ thuộc chủng loại Anđônêdiêng[4], cùng ngôn ngữ văn hoá gọi là MÔN-KHƠME. Số dân người SƠĐANG khoảng trên dưới 100.000 người. Tuy nhiên, chúng ta chưa có con số tương đối chính xác do Nhà nước đưa ra[5].

Người Sơđang cao lớn, khoẻ mạnh, nóng nảy, hiếu chiến, nhưng thật thà. Sống trong những đồi núi cao, hiểm trở, con người Sơđang có một sức tranh đấu dẻo dai. Những gian nan đó làm cho họ khắc khổ, giỏi chịu đựng. Bề ngoài họ có vẻ lạnh nhạt, nhưng họ rất có tình sâu sắc và chân thật. Vì được tôi luyện trong hoàn cảnh xã hội xáo trộn, lại nổi tiếng cương ngạnh, nhưng khi đã được thu phục, họ rất trung thành và kiên vững. 

3. Chúng ta có một số tài liệu của các vị thừa sai tiên khởi như của Cha DOURISBOURE ÂN  và Cha COMBES BÊ để lại, nói về nơi cư trú, tâm tính cũng như sinh hoạt thường nhật của người Sơđang vào hậu bán thế kỷ XIX. Nhìn chung, tâm tính của họ vẫn giữ nguyên đặc thù, công ăn việc làm cũng vậy.

“Người dân tộc Sơđang là một cư dân chuyên làm lò rèn. Nơi họ cư trú là dãy rừng núi do vùng đất nguyên sơ tạo nên, giàu quặng sắt. Hơn 70 làng, khi xong công việc đồng áng, họ lo khai thác quặng sắt, luyện đúc rèn và đem đi bán dưới dạng rìu, cuốc, dao quắm, lao mác… Dù họ cung cấp rất nhiều cho các vùng lân cận, họ cũng còn có thể khai thác với khối lượng lớn sắt, nếu họ đủ phương tiện và phương pháp”[6].

Người Sơđang dùng hệ thống ống bễ hơi bằng hai ống nén hơi như người kinh, dùng tảng đá granít làm đe và búa để rèn từ quặng sắt ra các dụng cụ. Họ không dệt vải, nhưng dùng công việc rèn dụng cụ sắt để đem đổi lấy các nhu yếu phẩm khác cho gia đình. Người Sơđang buôn bán nô lệ, ghè ché. Có loại đáng giá bằng nhiều con trâu hoặc bằng nhiều người nô lệ[7].

Đặc thù về đời sống, sinh hoạt lao động, làm rẫy nơi người Sơđang cơ bản cũng không thay đổi suốt thế kỷ XIX. Tuy nhiên, những hoàn cảnh chính trị toàn vùng ảnh hưởng rất nhiều đến tiến trình thay đổi con người của họ vào hậu bán thế kỷ XIX và nhất là thế kỷ XX này. 

II. BỐI CẢNH LỊCH SỬ CHÍNH TRỊ VÀO THẾ KỶ XIX

1. Để gọi người Sơđang, thời vua Gia Long, vua Minh Mạng gọi họ là người ĐÁ VÁCH[8]. Người Đá Vách hay quầy nhiễu, Lê Văn Duyệt một mặt cho người tìm hiểu nguyên do, biết được chỉ vì Lê Quốc Huy gây tội ác cho họ. Ông cho chặt đầu Huy để phủ dụ người Đá-Vách[9]. Mặt  khác vào năm 1810, ông cho đắp tường luỹ dọc ranh giới phía tây Trấn Man để ngăn chặn những cuộc đột nhập của người thượng[10].

Năm 1863, Nguyễn Tần trực tiếp tổ chức và góp phần định ra chính sách của triều đình đối với các dân tộc[11]. Chính sách này có phần thành công, trừ một số bộ lạc ở cực tây AN LÃO (Bình Định); nhưng đến năm 1869, mỗi bộ tộc được coi như “tạm ổn”[12]. Trong thực tế còn có nhiều cuộc cướp bóc giữa các bộ lạc với nhau[13] và không thần phục triều đình Huế như đã thần phục Tây Sơn trước kia. 

2. Ngoài những sức ép của LÀO, giữa thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, chúng tiến về phía nam, đến bờ hữu ngạn sông BLA, gần KONTUM hay đến Bản Đôn. Người Xiêm-La (Thái) tràn vào chiếm Tây Nguyên đầu thế kỷ XIX, đặt ra nhiều loại thuế, nuôn bán nô lệ cướp bóc[14]. Người Xiêm tranh chấp vùng đất Tây Nguyên nói chung, vùng Sơđang nói riêng với quân lính Pháp, ngay cả khi quân Pháp đã hoàn toàn chiếm Đông Dương vào hậu bán thế kỷ XIX[15]. Đầu thế kỷ XX, việc phân ranh ba nước vùng Đông Dương được Pháp ấn định dựa vào dữ kiện lịch sử, bắt Xiêm phải nhả vùng đất này cho Việt Nam[16]

3. Chính sách của Pháp và vùng bắc Tây Nguyên

- Chính sách toàn vùng của Pháp

Nhiệm kỳ Thủ tướng GUIZOT (1840-1848) của Pháp đánh dấu bước đầu một chính sách tăng cường nền mậu dịch của Pháp qua việc mở rộng vòng cung, bằng sức mạnh của Hải-Quân và bằng đòn bẩy ngoại giao qua Đông Á từ Ấn Độ Dương đến Trung Quốc và Thái Bình Dương.

Ông không ham muốn đất đai, mà quan tâm đặc biệt đến mức độ lớn mạnh của nền mậu dịch Pháp. Nhưng vì Pháp còn yếu kém, ông quan tâm mối quan hệ với Anh quốc cũng như tìm cách đặt ảnh hưởng để buôn bán với Trung Quốc, theo mô hình hiệp ước Nam Kinh (1842) với Anh.

Trong  khi đó, giới Hải quân Pháp lại bị thu hút đặc biệt vào Việt Nam trong đầu thập niên 1840. Guizot vẫn tiếp tục tránh né các bàn đạp trong nội địa có thể dẫn đến sự dính líu quá nhiều vào chính trị tại địa phương[17].

Sự ngược đãi của các quốc gia như Trung Quốc và triều đình Huế đối với Công giáo: tàn sát các thừa sai và giáo dân dưới triều đại Minh Mạng, Thiệu Trị, nhất là Tự Đức đã trở nên một duyên cớ chính đáng để Hải quân Pháp thực hiện ý đồ thực dân của họ. Đồng thời sau này, các nhà ngoại dân sự cũng đồng tình ủng hộ họ về chiến thuật chiếm đất đai của hải quân Pháp chủ trương. Vì sự vụng về với chính sách bế quan toả cảng cộng thêm quan niệm “vua là con Trời” của học thuyết Khổng giáo của Triều đình Huế, người Pháp được kích thích và được biện minh việc tiến hành thực hiện ý đồ xâm lược tại Việt Nam như một bàn đạp và hậu cứ tiến vào Trung Hoa. Cuộc chiến tranh xâm lược bị sức chống đối của người Việt và bị tổn hại về nhân sự vật lực của quân đội viễn chinh Pháp rất nhiều.

+ Những động lực thúc bách để thực hiện chương trình chiếm đóng vùng đông Mêkông.

Từ năm 1875, chính quyền thuộc địa ở Sài Gòn bực bội về những thiếu sót trong bàn Hiệp ước của Đề đốc Dupré và của bản thoả ước thương mại tiếp theo đó vào tháng 8-1875. Việc buôn bán trên sông Cái không được tốt đẹp, vì nạn giặc cướp liên tục ở thượng du Bắc Việt, nên việc buôn bán với Vân Nam rất giới hạn.

Năm 1878, tình hình nghiêm trọng hơn. Có tin nói là người Anh đang mở một đường vào Vân Nam từ phía nam MIẾN ĐIỆN qua BHAMO[18]. Vào khoảng năm 1880, hai vương quốc bắc Miến Điện và Xiêm ngăn cách các lãnh thổ của Anh, có ảnh hưởng trên vương quốc này. Vì hai vương quốc này giáp với Việt Nam và Campuchia ở đồng bằng sông Mêkông, nhưng lại không có làn biên giới rõ rệt. Mối đe doạ phức tạp cho người Pháp. Trong khi đó, con đường vào Trung Quốc qua IRRAWADAY qua BHAMO tới TALIFU khó khăn, nước Anh đề nghị một con đường thiết lộ đi qua LÀO ở phía bắc XIÊM, bên kia sông Mêkông và vào Vân Nam. Đây là con đường mà người Pháp quan tâm nhất. Nếu người Anh tìm một đường thiết lộ tiếp xúc buôn bán với tây nam Trung Quốc, việc chiếm Bắc kỳ của Pháp mất giá trị. Nói cách khác, thế đứng của vùng Đông sông Mêkông rất quan trọng trong toàn chính sách thực dân của Pháp.

+ Vai trò quan trọng vùng Đông Mêkông

Ảnh hưởng của người Anh đối với bắc Miến Điện và Xiêm làm cho Pháp sợ về mặt an ninh những vùng phụ cận của sông Mêkông. Đặc biệt, người Xiêm đã từng lấn chiếm vùng Tây Nguyên trung phần, nên người Pháp tìm mọi cách ngăn ngừa một nước vẫn triều cống của bắc Miến và Xiêm trong đồng bằng sông Mêkông, để không rơi vào ảnh hưởng của nước khác. Người Pháp có một viễn tượng dùng đường sông Mêkông đi từ Nam Kỳ đến Vân Nam. Hơn nữa, từ cửa Mêkông còn có một vài con đường để dẫn nhập đến Huế, Nam Vang và Sài Gòn. Sau hết, người Pháp hy vọng biến chính con sông thành một biên giới để xác định ở phía Đông[19].

+ Cách thức Pháp  thực hiện kế hoạch chiếm vùng Tây Nguyên.

Người Pháp dùng nhiều biện pháp tìm hiểu sự kiện lịch sử các dân tộc Tây Nguyên, vùng tả ngạn sông Mêkông, đồng thời tìm bằng chứng lịch sử các cư dân này từng liên kết với người Việt Nam và Triều đình Huế từ xa xưa. Nhiều nhà thám hiểm, nhiều nhà vẽ bản đồ và tìm dữ kiện lịch sử đã đến Kontum vào hậu bán thế kỷ XIX như ông Auguste Pavie (sinh 1847 chết 1925), ông Odend’ Hal (bị giết chết năm 1904)[20]. Họ nhờ sự hiểu biết và tận tình giúp đỡ của các vị thừa sai trong cuộc tìm kiếm này, mà người Pháp phần nào thành công hất cẳng quân Xiêm ra khỏi vùng Tây Nguyên.

Với chính sách trên, vùng đất bắc Tây Nguyên đã được sát nhập vào Hạ Lào, đến đầu thế kỷ này mới hoàn trả lại cho Việt Nam. Điều đó nói lên tầm mức quan trọng về mặt chính trị, an ninh như thế nào của vùng Tây Nguyên nói chung, bắc Tây Nguyên nói riêng. Chúng tôi sẽ trình bày bối cảnh lịch sử này tác hại trên sinh hoạt truyền giáo như thế nào tại vùng Sơđang trong những chương sau. 

CHƯƠNG HAI

KONTRANG, ĐIỂM TRUYỀN GIÁO VÀO THỜI SƠ KỲ (1852-1857)

CON NGƯỜI LINH MỤC TIÊN KHỞI: CHA DOURISBOURE ÂN

Công cuộc truyền giáo trên vùng Tây Nguyên trong thời điểm cực kỳ phức tạp. Do đó, tinh thần truyền giáo của các linh mục ngoại quốc cũng như bản xứ tinh tế và vững chắc. Tinh thần truyền giáo của các ngài như thế nào?

Vào thập niên 40-50 của thế kỷ XIX, Giáo hội Việt Nam bị bắt bớ dưới triều đại họ Nguyễn. Đức cha CUENOT Thể không thể lựa chọn con đường nào khác để thực thi lệnh truyền truyền giáo của Đức Kitô, Thầy chí thánh của mình, và bước theo truyền thống của các vị thừa sai đã cố gắng truyền giáo cho các dân tộc Đá Vách, Kha từ thế kỷ XVII. Ngài quyết tâm cho người tìm đường lên Tây Nguyên loan báo Tin Mừng, đồng thời để tín hữu ẩn núp trốn tránh những cuộc bách đạo tại Trung Châu. Nên, bất chấp thất bại nhiều lần, vào năm 1848, người gửi Thầy Sáu DO khai phá con đường lên vùng các dân tộc Tây Nguyên. Sau những lần mạo hiểm và cố gắng đến mức anh hùng, đoàn truyền giáo đã đến KON-KƠXÂM vào năm 1851. Đoàn truyền giáo báo cáo cho Đức Cha biết rõ các sắc tộc và điểm truyền giáo có thể xây dựng được vào cuối năm 1851. Đức Cha phân bổ nhân sự vào 4 điểm truyền giáo như sau:

+ Cha COMBES BÊ, Bề Trên, phụ trách vùng người Jơlơng, ở KON-KƠXÂM.

+ Cha DOURISBOURE ÂN phụ trách cư dân Sơđang, ở KONTRANG.

+ Cha DESGOUTS ĐỀ và thầy sáu DO phụ trách cư dân Bahnar-Rơngao, ở PLEI RƠHAI.

+ Cha FONTAINE PHẨM ở PLEI CHƯ, lo cho người Jrai.

Xuyên suốt cuộc hành trình và cực nhọc, nguy hiểm, cũng như sau này, trong các điểm truyền giáo, tinh thần truyền giáo của các ngài trong sáng, chính thống, khôn ngoan và thức thời.

Việc truyền giáo nhằm phục vụ “CON NGƯỜI” như họ là đối tượng yêu thương và được Chúa đã cứu chuộc bằng đem Ánh Sáng Tin Mừng của Đức Kitô hướng dẫn, nâng cao phẩm giá của họ. Các vị truyền giáo gắng sức theo con đường Chúa Kitô đã đi.

Thật vậy, Chúa Giêsu đã dứt khoát trả lời cho Philatô:

“Nước tôi không thuộc về thế gian này” (Ga 18,36).

Đối tượng truyền giáo là hết mọi người, trong mọi chính thể.

Nội dung là SỰ THẬT của Đức Kitô. Chúa Giêsu trả lời cho Philatô:

“Tôi sinh ra và đã xuống trần gian để làm chứng cho Chân lý. Hễ ai ưa Chân Lý sẽ nghe tiếng tôi” (18,37). Sự bùng nổ hay chao đảo của các thể chế nào đó, chính là Chân lý của Đức Kitô “có sức nội tại đòi hỏi thay đổi” cung cách sống của con người, của xã hội. “Sự Thật có tính cách giải phóng” (Ga 3,19-20).

Tận cùng của con đường truyền giáo không phải là vinh quang Thập giá của Đức Kitô đó sao? Tinh thần của Đức cha Cuénot là thập giá, là hy sinh, để loan báo Tin Mừng. Cuối cùng, các vị thừa sai của ngài cũng đã vượt mọi khó khăn cản trở để xây dựng các điểm truyền giáo của mình[21] tại Tây Nguyên.

I. CON NGƯỜI LINH MỤC ĐẦU TIÊN TRÊN VÙNG SƠĐANG[22]

1. Một vài nét tiểu sử của vị thừa sai tiên khởi tại KONTRANG

Cha Dourisboure, tên Việt là ÂN, linh mục thừa sai Pháp, sinh ngày 19-9-1825 tại BRISCOURS miền tây nam nước Pháp, gần biên giới Tây Ban Nha.

Năm 1846, vừa 21 tuổi, ngài xin gia nhập Hội Thừa sai Paris, sau khi học xong tiểu chủng viện và đại chủng viện tại quê nhà.

Năm 1849, ngài thụ phong linh mục đúng 24 tuổi.

Tháng 10-1849, ngài rời cảng Nantes, đến Gò Thị, Địa phận Đông Đàng Trong, lúc gà gáy ngày 23-6-1850, áp lễ Gioan Tẩy Giả.

Sau 3 tháng học tiếng Việt, ngài cùng Cha DESGOUTS ĐỆ ra đi lên vùng dân tộc. Từ Gò Thị khởi hành ngày 11-11-1850, các ngài nằm trong khoang ghe, mất hai ngày đàng sông tới BẾN (nay là Định Quang, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Từ điểm BẾN, đoàn truyền giáo phải bò leo qua núi DÓC VÁN, giữa hai chỏm núi cao (núi ông Bình, núi ông Nhạc) mới đến TRẠM GÒ lúc gày gáy (nay thuộc vùng xã Cửu An, An Khê), trú chân tại đây suốt ngày hôm đó. Mặt trời vừa lặn, đoàn truyền giáo gồm 15 người, em thầy Sáu DO là thầy THÁM mở đường, băng qua núi vượt sông BA (bến Cai Gang hoặc bến suối Gấm, hữu ngạn sông Ba, nay thuộc xã Cửu An, thôn ba An Khê)[23] gặp thầy Sáu DO từ KON KƠLANG xuống đón. Tay bắt mặt mừng, rồi đoàn trực chỉ phía tây mười cây số, rồi hướng về phía bắc. Đoàn đến làng Baham và ở lại tại đó vài ngày, rồi vượt qua Kon GO, đến làng BƠLU, vào ngày lễ Giáng Sinh mưa tuyết đổ xuống nhiều. Cha Desgouts mệt hầu như kiệt sức.

Ngày 1-1-1851, sau khi chúc mừng năm mới, đoàn khởi hành trực chỉ hướng tây. Thầy Sáu Do bị đạp chông tre đâm sâu vào bàn chân, băng bó và phải nghỉ lại, còn đoàn truyền lên đường đến Kon-Phar vào tối hôm đó. Từ Kon-Phar đến KON KƠLANG mất gần một ngày đàng nữa (2-1-1851). Đó là những ngày đầu năm 1851: gặp gỡ giữa 4 vị thừa sai: Cha Combes Bê, Cha Fontaine Phẩm, Cha Dourisboure Ân và Cha Desgouts Đệ trong vui buồn lẫn lộn và các ngài hướng về tương lai cho công việc khám phá vùng truyền giáo để “hạ trại”.

Sau khi ở Kon Kơlang một thời gian, nhờ ông Hmur, con người tốt, trung thực, ở KON-KƠXÂM tạo điều kiện, đoàn truyền giáo đến tá túc tại đây, bên tả ngạn sông BLA. Vất vả, thiếu thốn vật chất không làm cho các vị thừa sai lo âu bằng vùng đất truyền giáo chưa có nơi để xây dựng các điểm truyền giáo.

2. KONTRANG, cửa ngõ vào vùng cư dân SƠĐANG

Trong bàn tay Chúa an bài, đầu năm 1852, khi ông HMUR, chủ làng KON-KƠXÂM giúp mua gạo cho các vị thừa sai tại làng KON-RƠBANG cũng thuật lại sự hiện diện, phẩm chất các vị thừa sai cho họ nghe. Vì tọc mạch hay vì lý do gì đó, một số người làng Kon-Rơbang đến Kon-Kơxâm tận mắt nhìn xem những con người lạ lùng này. Lúc họ tiếp xúc với các vị thừa sai, họ hết lo sợ, hết ngăn cấm ông HMUR dẫn các vị thừa sai đến thăm vùng đất của họ. Ngược lại họ cũng bằng lòng hướng dẫn các ngài đi thám sát vùng đất phía tây này: đất rộng, bằng phẳng. Các ngài quyết định mua nhà và xây dựng điểm truyền giáo tại RƠHAI (nay là Giáo xứ Tân Hương, thị xã KONTUM).

Đến RƠHAI ở được mấy hôm, Cha COMBES BÊ, thầy Sáu DO, Cha DOURISBOURE ÂN theo dòng sông BLA mở cuộc thám hiểm các buôn làng hai bên bờ sông đến tận Plei-Krong. Sau đó không lâu, các ngài dùng đường sông đến khám phá những bộ lạc khác nhau nằm phía bắc và phía nam. Phía bắc  là bộ lạc SƠĐANG, phía tây là cư dân Jrai. Các ngài trình tất cả công cuộc khám phá vùng đất hữu ngạn sông BLA cho Đức Cha. Người quyết định cho các vị thừa sai hạ trại và phân bổ 4 điểm truyền giáo như đã trình bày ở trên.

KONTRANG, ĐIỂM TRUYỀN GIÁO đầu tiên cho người SƠĐANG

Một ngày nọ, đầu năm 1852 vào dịp Cha Bề trên COMBES BÊ từ Kon-Kơxâm đến Rơhai, có một người dân làng KONTRANG, một trong những người thế giá nhất ở đó đến thăm nhà các vị thừa sai tại RƠHAI.

KONTRANG là một làng lớn ở phái bắc xứ Rơngao, cửa ngõ vào lãnh thổ do người Sơđang cư trú. Làng Kontrang cũng thuộc bộ tộc này, cũng nói tiếng Sơđang. Ông tên là BANĂNG. Kontrang là một trung tâm mua bán giữa người Rơngao và dân Sơđang. Người LÀO đôi khi cũng đến đó để bán trâu và mua nô lệ hoặc vàng vụn. Dân làng KONTRANG quen thấy người Lào nên ít hoảng sợ khi thấy người ngoại quốc hơn các dân tộc khác. Cha COMBES đề nghị ông BANĂNG đem cha DOURISBOURE đến Kontrang. Ông đồng ý, ở lại hai ngày đợi Cha Dourisboure Ân. Cùng với một thầy giảng người kinh, có Cha Bề trên đưa đi, ông Banăng dẫn ngài đến Kontrang. Cha Bề trên ở lại một đêm, sáng hôm sau ra về nhiệm sở của mình, để cha Dourisboure ở lại Kontrang[24]

II. CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO TẠI KONTRANG THỜI SƠ KỲ (1852-1857)

Gặp nhiều khó khăn vì thiếu thốn, bệnh tật, giao thông không có, sống giữa anh em dân tộc không cùng ngôn ngữ và tập quán, Cha Dourisboure cần một năng lực siêu nhiên. Cha Bề trên Combes đã nói lên niềm tin của đoàn truyền giáo trong là thư viết tại Kon-Kơxâm vào ngày 29-9-1853, gởi cho các bề trên Chủng viện Thừa sai Paris[25]: “Niềm tin vào Đức Kitô”. Cuộc đời truyền giáo của Cha Dourisboure trong những ngày đầu tiên KONTRANG đen tối, cô độc. Trong những giây phút đó, Ngài biệt tin vào ai.

1. Những ngày đầu tiên cư trú tại Kontrang[26]

NỖI BUỒN

Cha Bề trên Combes rời khỏi Kontrang để lại một mình Cha Dourisboure ở giữa một gia đình đông đảo ồn ào, xa lạ, cách biệt với anh em linh mục đã từng vui buồn trên những chặng đường rừng núi: “nỗi buồn da diết!”. Ngài không thể cầm lòng cầm trí để cầu nguyện. Không có thánh lễ. Tiếng cười nói của thanh niên nam nữ, tiếng khóc của trẻ thơ, đàn ông, đàn bà tụ tập hỗn độn. Bầu khí, lối sống quá khác biệt cùng những tiếng nói xa lạ. Mọi quan hệ hầu như bị cắt đứt. Tương lai đen tối, trống rỗng. Mặt trời đã lặng sau núi, lúc bóng tối bao phủ vạn vật, cơn gió rét tháng đầu năm: CÔ ĐỘC! Nhưng, hình ảnh của Chúa càng rõ nét. Ngài thốt lên:

“Ô không! không phải tôi có một mình thôi đâu. Ôi! Chúc tụng Chúa là Đấng mà chén đắng của mình thì Người uống cạn, chén đắng của Người trao cho chúng ta thì Người trộn vào đó một thứ ngọt ngào nào đó”.

NIỀM VUI BẤT NGỜ

Một chiều nọ, Cha đang nằm trên chiếc chiếu rách, lòng buồn não nuột, càng thấm thía khi thấy một số đông anh em dân tộc vào cuối gian nhà đối diện nơi ngài nằm, với nét mặt lo lắng, buồn bã. Ngài hỏi bằng tiếng Bahnar, có một bà cho biết: một người sắp chết. Ngài trỗi dậy, theo họ vào gian đối diện, thấy em bé thoi thóp sắp chết. Ngài chụp lấp bầu nước, làm phép rửa tội cho em bé. Ngài rung động được an ủi, thầm bảo:

“Hãy đi bằng an, hỡi thiên thần nhỏ bé, nhưng ít nữa là trên đó, hãy nhớ đến tôi với”.

Ngài trở lại với chiếc chiếu cố hữu, lòng tràn ngập an vui. Những buồn chán vụt bay để lại một tâm hồn bình thản, tự nói với lòng mình:

“Tất cả những buồn khổ của tôi được trả công xứng đáng; tôi đã cứu được một linh hồn. Ôi Thiên Chúa của con. Người hãy được chúc tụng đến muôn đời”.

CÔNG VIỆC HẰNG NGÀY

Năm ấy mất mùa, dân làng Kontrang không còn thóc gạo. Họ không quan tâm. Rừng núi là kho lương thực vô tận: măng le, củ rừng, con chuột, con sóc… đổi món trong năm. Trên sông Pơkô, làng Hamong năm nay được mùa. Cha thường lui tới mua lương thực, gùi gạo về. Một bà già dân tộc, đói không có gì ăn, giúp nấu nướng cho cha. Bà cùng chia sẻ phần cơm. Sau này bà là tín hữu đạo đức.

Tiếng nói là phương tiện giao tiếp, trao đổi và rao giảng Tin Mừng. Ngài bắt đầu học tiếng Sơđang. Loại tiếng này khác hẳn tiếng Bahnar. buổi sáng và buổi tối, Cha lên nhà rông gặp gỡ số anh em dân làng, học thêm vài từ mới. Gặp khó khăn học thứ tiếng nói này hơn, vì có một mình, ngài cố gắng tối đa.

Trong ngày ngài bơ vơ, lắm lúc như đi lang thang vòng quanh Kontrang: những đám mây chập chờn trong cuộc đời. Ngài cũng gặp lại anh em tại Rơhai mỗi tháng một lần để vui vẻ trao đổi, an ủi và dâng Thánh lễ. Đó là sức mạnh cho chuỗi ngày ảm đạm ở Kontrang. Ngài đã khóc:

“Ôi lạy Chúa, xin tha thứ cho con. Tuy nhiên, con buồn phiền không bao giờ kéo dài lâu và khóc bao giờ cũng được an ủi (…)”.

Ông chủ ngôi nhà sàn, nơi cha tạm trú - Ông Lam - một người dân tộc thông minh nhất mà ngài đã từng gặp. Thường đêm, Cha và ông Lam mỗi người nằm trên một chiếc chiếu đặt hai bên bếp lửa. Ông dạy cha học tiếng. Nhiều khi Cha đang đọc kinh, bắt gặp ông nhìn Cha một cách kính trọng. Lúc đó, ngài đặc biệt cầu nguyện cho ông, cho hai con ông, nhất là NGUI đứa út của ông.

Sau khi bập bẹ tiếng Sơđang, ông LAM thường tìm hiểu về quê hương, về gia cảnh và lý do tại sao Cha sống nơi rừng sâu nước độc như thế này? Ông LAM chưa hiểu lý tưởng của ngài, vì ông chưa hiểu rõ Thiên Chúa là Đấng nào, thương yêu mọi người và đâu là sứ mệnh của các vị thừa sai.

2. Người bạn đồng hành: Cha ARNOUX A (1852-1853)

Cha Arnoux đến xứ truyền giáo năm 1852 và được Cha Bề trên Combes gởi lên Kontrang học tiếng và phụ giúp cha Dourisboure An. Cha Dourisboure vui sướng biết bao vì gặp được người bạn cũ cùng học chung với nhau: cả hai cùng vào Hội Thừa sai năm 1846 và học ở đó ba năm. Cả hai tay bắt mặt mừng, cùng chung một chiếu tại nhà ông LAM, cùng một lý tưởng chia sẻ vui buồn, vơi đi những ngày tháng đơn độc.

Cả hai cùng đi thăm các làng lên phía bắc. Có lúc cả hai vào rừng tham quan cảnh hùng vĩ của núi sông. Cha Arnoux rất thông thạo thực vật, động vật. Sức khoẻ của Cha xem ra khá vững, nhưng dần dần tì vị Cha ăn khó tiêu vì không quen thức ăn, sức khoẻ giảm sút trông thấy. Ngài ăn một tí gì, thấy khó tiêu, thường nôn mửa ngay. Ngài còn bị kiết lị kéo dài nhiều tháng, đưa ngài đến tình trạng thật bi đát.

Cha muốn lưu lại trên vùng đất truyền giáo thân thương với người bạn cố tri, cùng đồng hành trên các nẻo đường truyền giáo cho người Sơđang, nhưng bệnh tình tái phát, buộc lòng Cha Bề trên nhờ thầy Bảo đưa cha về Trung Châu năm 1853. Ngài ra đi, đó là lần vĩnh biệt với các vị thừa sai heo hút trên rừng sâu. Vĩnh biệt một người bạn, Cha Dourisboure ngậm ngùi chào vĩnh biệt. Cha Arnoux không bao giờ gặp cha trên trần gian này nữa từ ngày đó.

Cha Arnoux rời khỏi Việt Nam, đến Tân Gia Ba chữa trị. Sau đó, ngài trở lại Nam Bộ, thành lập cô nhi viện lớn, nuôi trẻ người thượng của địa phận này trong 10 năm. Bệnh tái phát, Ngài qua Hồng Kông và qua đời tại đó (1864). 

III. NHỮNG THÀNH QUẢ VÀ THỬ THÁCH[27] 

Một đóa hoa đầu mùa dâng lên Thiên Chúa: em bé hấp hối đã được rửa tội, tắt thở. Niềm an ủi, phấn khởi cũng như ân huệ cho công cuộc truyền giáo được đâm chồi nảy lộc sau này.

1. NGUI và PAT, hai tân tòng người Sơđang đầu tiên

NGUI

Là con út của ông LAM, chủ ngôi nhà lớn, nơi Cha Dourisboure tạm trú thời gian. NGUI lúc đó khoảng 12 tuổi, luôn quanh quẩn bên cha. Đó là đứa bé rất thông minh, hay nhận xét, luôn để ý đến các giờ kinh nguyện cũng như cử chỉ của cha. NGUI thường hay trầm ngâm, nhìn cha vài phút rồi bỏ đi. Bản tính em cũng nóng nảy, nhưng có lòng tốt và dễ cảm xúc.

Bản chất em chân thật và có một nhạy cảm về đời sau, sợ Yang phạt. Thế nhưng, khi em biết được Thiên Chúa đã yêu thương em, dân tộc em, em không còn nỗi lo âu đến Yang nữa. Em mong mỏi đến ngày lãnh Bí tích Rửa Tội,để tình yêu được trọn vẹn cho Chúa.

Các kinh nguyện thường ngày được cha dịch sang tiếng Sơđang giúp cho em hướng tâm hồn trẻ thơ liên kết với Chúa. Em có thói quen đọc kinh.

Trong suốt hai tháng, ngày nào em cũng đến gặp cha nơi nhà mới. Nhờ ơn Chúa Thánh Thần tác động, em đã vững tin. Em còn có một tâm hồn truyền giáo cho bạn mình: PAT.

PAT

Lại thêm một bông hoa nữa dâng cho Chúa, tên em là PAT. Gia đình PAT ở gần vùng KON-KƠXÔN.

Dân làng HƠ-JOL được sự yểm trợ của người Sơđang tấn công làng Kon-Kơxôn. Mọi người trong làng đi làm việc hết, trừ gia đình em. Cha của PAT buộc thằng bé PAT trên lưng, lúc đó PAT mới biết đi. Người cha xông vào giữa quân địch, tay cầm lao; nhưng không lâu, ông đã ngã quỵ, mình đầy máu me. Những kẻ thắng trận đã đem PAT đi, nuôi nó trong vài năm để bán được giá hơn, rồi bán nó tại Kontrang.

Cha chuộc bé PAT và nuôi nó. Nó rất quí người bạn. Qua đời sống tất lành của cha, Ngui đã hấp thụ được một lòng đạo đức, thương người. Nhờ vậy, NGUI đã gây được nhiều ấn tượng thánh thiện cho PAT. PAT có trí khôn. Nhờ trao đổi với bạn thân tình là NGUI, nên PAT đã hiểu được giáo lý, có lòng tin sâu sắc và hội đủ điều kiện để lãnh nhận Bí tích Rửa Tội.

NGÀY DIỄM PHÚC

Ngày diễm phúc  cho hai em: PAT và NGUI cũng là niềm hạnh phúc hằng mong ước của Cha Dourisboure. Đây là thành quả của những năm tháng hy sinh của cha, là những đoá hoa rừng đầu tiên dâng cho Chúa. Ngày đáng ghi nhớ 16-10-1853 : hai trẻ lãnh nhận Bí tích Rửa Tội với sự chứng kiến và cầu nguyện, tâm tình tạ ơn của Cha Bề trên Combes.

Em NGUI nhận tên thánh Bổn mạng là GIUSE và PAT là GIOAN.

Nét mặt hai em sáng ngời, vui tươi, phát lộ tâm tình trong trắng, hồn nhiên, toả hương thơm những HOA RỪNG cho ĐIỂM TRUYỀN GIÁO KONTRANG.

2. Cha VERDIER XUÂN đến miền Tây Nguyên (10-8-1857)

Thay thế Cha Dourisboure[28]

Chính vào giữa thời gian Cha Arnoux xuống Trung Châu dưỡng bệnh (1854), cơn bắt đạo bùng nổ dữ dội tại tình Bình Đinh. Tổng đốc ra lệnh bắt bớ giáo dân, linh mục, tu sĩ, phá huỷ các cơ sở tôn giáo như 3 cơ sở truyền giáo: Trạm Gò. An Sơn và Bến cũng nằm trong danh sách lệnh này.

Đức Cha đang ẩn nấu tại Gò Thị cùng với hai linh mục thừa sai: Cha Arnoux và Cha Verdier. Cha Arnoux phải chuyển gấp về Tân Gia Ba; Cha Verdier vội vã lên miền thượng. Thầy Năm Bảo vất vả vừa mới dẫn Cha Arnoux băng rừng nguy hiểm, trốn tránh lặn lội về Gò Thị, chưa nghỉ lại sức, vâng lời Đức Cha vội vã hướng dẫn Cha Verdier lên Tây Nguyên.

Cha Verdier thuộc Giáo phận Montaubar

Cuộc hành trình trốn thoát nguy hiểm. Đêm thứ hai lúc gà gáy, họ đã đến cơ sở BẾN, hy vọng nghỉ chân. Nhưng chính lúc đó có người giáo dân báo cho thầy Năm Bảo biết lệnh quan sắp bình địa cơ sở này. Họ vội vã chạy trốn trên chiếc ghe nhỏ đang đậu trên sông. Cha Verdier chứng kiến cảnh đập phá tàn bạo tài sản của Giáo Hội. Khi họ đến TRẠM GÒ, cơ sở này cũng đã ra tro. Họ đành trú trong bụi rậm, nhịn đói trong 3 ngày, không một hạt cơm trong bụng. Cuối cùng, với cố gắng và với sức mạnh của Chúa, các ngài đã đến Kon-Kơxâm ngày 10-3-1854.

Cơn bắt đạo tại Bình Định ngày càng dữ dội, ảnh hưởng đến miền truyền giáo. Các cơ sở giao liên giữa vùng truyền giáo và Trung Châu bị đốt phá, không có người hướng dẫn. Các vị thừa sai tìm cách sơ tán khỏi Kon-Kơxâm. Cha Verdier Xuân được Cha Bề trên cho đến Kontrang học tiếng Sơđang và giúp Cha Dourisboure (1854). Cha bù đắp lại phần nào sự ra đi đột ngột của Cha Arnoux, và an ủi, giúp đỡ Cha Doursiboure những công việc cần thiết.

3. Cộng đoàn tín hữu đầu tiên tại KONTRANG[29]

Tinh thần truyền giáo nhiệt thành của NGUI đã thúc đẩy người cha và người anh cả là NGAM tìm hiểu đạo và xin tòng giáo. Sau một thời gian phân vân, lưỡng lự, thử thách, người cha và ông anh của em được ơn Chúa, xin học đạo và xin tòng giáo. Nhờ sự hy sinh, nhờ sức thuyết phục, nhất là lời cầu nguyện chân thành của em, Chúa đã soi sáng cho hai người thân của em được lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Cha Bề trên Combes dự lễ và đỡ đầu cho ông LAM. Niềm hân hoan trào dâng nơi các cha, và cho cả cộng đoàn, nhất là cho NGUI.

Trong năm 1855, tại KONTRANG có độ 10 người trẻ tuổi noi theo ông LAM, anh NGAM xin tòng giáo. Đoàn chiên nhỏ đã gia tăng ngày càng nhiều.

4. Những thử thách cho cộng đoàn nhỏ bé[30]

Điểm truyền giáo KONTRANG gặp nhiều thử thách ngay lúc mà ai cũng nghĩ là đạt được thành công: đi trong đêm tới đức tin như Abraham. Nếu không có đức tin, Abraham đã chùn bước, các vị thừa sai rơi vào tình trạng lo âu, buông xuôi, chán ngán. Nhưng, chương trình Thiên Chúa không ai lường được.

POI một người làng RƠBANG thuộc dân RƠNGAO, âm mưu với 4 làng khác để ám hại, cướp của các điểm truyền giáo. Ông đã lên Kontrang rủ rê ông LAM để cùng nhau thực hiện ý đồ đen tối đó. Nhờ lòng trung thực, kiên quyết từ chối của ông LAM, kế hoạch này bi thất bại từ trong trứng nước. Ông LAM cho cha biết nôi vụ này sau khi mưu đồ đó đổ vở vài tháng.

+ Một thử thách da diết làm tổn hại đến công cuộc truyền giáo xảy ra cuối năm 1855.

Cuối năm này, có độ 25 tân tòng và một số dự tòng. Tám người tân tòng đã chết, cách chết khác thường: một cô gái chết vì ra máu nhiều; một cô gái khác chết vì rắn cắn; bốn anh thanh niên chết sau 48 tiếng do bệnh cấp kỳ; anh Gioakim AM chết vì đi tả; GIUSE NGUI ngã quỵ vì bệnh màng óc. Không một ai bên lương chết cả. Do mê tín dị đoan, dân làng coi cách thức chết - chết bất đắc kỳ tử - chết xấu do Yang phạt đã gây hoang mang trong dân làng. May thay, đức tin của các tân tòng vẫn đứng vững.

Một số anh em dự tòng bắt đầu học giáo lý, đức tin còn yếu đã bỏ cuộc hết. Cha tâm sự:

“Cái năm buồn biết bao! Và tâm hồn tôi đau đớn là dường nào! Tôi thấy bao hy vọng của tôi tan ra mây khói; tôi thấy toà nhà xây dựng với biết bao nhiêu công sức bị sụp đổ tan hoang; hoả ngục đang tái chiếm phần đất đã mất!”

+ Năm 1857, một thử thách khác xảy ra trong nhà của cha.

Một cô gái trong gia đình người dân tộc có thế giá tại Kon-Hơring đến Kontrang dự đám cưới về. Đến nhà, cô lâm bệnh nặng. Bơjâu (phù thuỷ) cho người cha của cô gái biết nguyên nhân gây ra tai hoạ này là do một người con gái trong hộ của cha. Dân làng Kon-Hơring đòi cha phải nộp cô gái đó cho họ. Cha Doursiboure khôn ngoan, thông minh đã khám phá ra âm mưu quỉ quyệt về cách thức bóp trứng gà của ông phù thuỷ. Do đó, cha đã vạch mặt xảo trá của ông ta. Dân làng kính trọng cha và người con gái bị tố cáo gây ra tai hoạ đã thoát nạn.

+ Một biến cố đau buồn cho cả vùng truyền giáo là cái chết của Cha Bề trên Combes, ngày 14-9-1857 tại Kon-Kơxâm. Cha Doursiboure buộc lòng phải rời khỏi Kontrang để đến đảm trách Kon-Kơxâm, điểm truyền giáo vừa trống chủ chăn. Thay vào đó, Cha Verdier Xuân phụ trách điểm truyền giáo Kontrang thay Cha Dourisboure.

Khi Cha Dourisboure rời nhiệm sở cũ, số giáo dân có 26 tân tòng người lớn, không kể một số trẻ em và dự tòng[31]

Còn tiếp

--------------------------------------------

[1]  Địa danh KONTRANG: Người dân tộc có thói quen dời chỗ luôn. KONTRANG cũng nằm trong tình trạng này với thời gian cũng đã phân ra nhiều làng nữa. Như vậy địa danh KON-TRANG mà cha Dourisboure đến ở đầu năm 1852 tại nhà Ông LAM là nơi nào? Sau đó làng được dời đến đâu?

Theo tài liệu của Cha Dourisboure “Les sauvages Bahnars”, 1929, cũng như dựa vào một số tài liệu trong Echos de Mission chúng ta. Có thể lần bước tìm được dấu vết này.

Đầu năm 1852, Cha Bề trên Combes đưa tiễn Cha Dourisboure đến KONTRANG, nơi buôn bán giữa các dân tộc Rơngao, Sơđang, tỉnh thoảng với người LÀO, là cửa ngõ vào vùng Sơđang.

Cuối năm 1854 (x. Dourisbouire, sđd, tr. 183) dân làng bỏ chỗ này dời cư đến gần làng Rơngao, cách chỗ cũ khoảng 3 cây số, gần sông PƠKÔ, không xa làng Hamong (sđd, tr. 99).

Năm 1884, Cha Irogoyen Hương lên thế Cha Roger vừa qua đời. Năm sau (1855) vì nạn Văn Thân, một số người kinh chạy trốn lên họ đạo Cha Hương, dần dần lập làng NGÔ-TRANG. Suốt thời gian từ trước đến nay, làng Ngô Trang không dời chỗ.

Do đó, chỗ Cha Dourisboure đến ở (từ 1854 sau khi dời làng) cho đến các cha sau này là KONTRANG. Theo bản đồ thời Pháp cũng như bản đồ 1963 của chế độ cũ, tại vùng này có làng tên KONTRANG HO gần ngã tư quốc lộ 14, cách thị xã KONTUM ngày nay độ 12–13 cây số, bên trái (từ Kontum đi lên Dak-Tô).

Còn nơi KONTRANG trước khi dời (1852) nằm bên hữu đường 14, trên ngã tư vào NGÔ-TRANG vài cây số, gần suối DAK-KƠLA.

Cả hai địa điểm này thuộc xã KƠLA.

[2] Tỉnh Kontum và tỉnh Gialai đã có nhiều địa danh và chia thêm nhiều huyện xã mới từ năm 1975 đến nay, nên trong tài liệu chúng tôi có những tên không trùng hợp với thực trạng hiện hành.

[3] Xem “Các dân tộc ít người ở Việt Nam (các tỉnh phía Nam)”, của UBKHXHVN, Viện DTH, Hà Nội 1984, tr. 95-97.

Xem thêm: Đặng Nghiêm Vạn, Cầm Trong… “Các dân tộc tỉnh Gialai-Kontum”, Hà Nội 1981, tr. 30-31; tr. 158-165.

[4] Cửu Long Giang và Toan Ánh “Việt Nam Chí Lược, miền thượng Cao nguyên”, Sài Gòn 1974, tr. 267.

[5] Theo giáo sư Nghiêm Thẫm, có chừng 100.000 người Sơđang (x. Chứng chỉ nhân chủng học dân tộc thiểu số miền nam”, niên khoá 1973-1974 (Bản quay Rônêô, do sinh viên thực hiện), tr. 32.

+ Theo tài liệu năm 1967, người Sơđang chính cống là 26.120; còn khoảng 14.887 người  thuộc vài sắc tộc nhỏ khác pha giống với người Sơđang (x. Cửu Long Giang…, sđd, tr. 265-266).

+ Theo tài liệu của nhóm giáo sư Đặng Nghiêm Vạn, số người Sơđang trên 75.000 người (Sđd, tr. 158).

Ngoài ra còn khoảng 10.000 người Sơđang đến lập nghiệp tại tỉnh ĐakLak vào năm (1973-1974).

[6] x. Dourisboure, sđd, tr. 315; xem thêm tr. 308-332.

[7] Dourisboure, sđd, tr. 315-316.

[8] Cửu Long Giang - Toan Ánh, sđd, tr. 91, có ghi chú số 8:

“Đá Vách là một bộ tộc vùng Batơ, Minh Long, Sơn Hà thuộc về tỉnh Quảng Ngãi. Hồi xưa danh từ ĐÁ VÁCH dùng để chỉ chung cho những đồng bào thượng thuộc các bộ tộc: CÀ GIÔNG, CÙ, SƠĐANG, HRÉ, BƠNAM, BAHNAR”.

[9] Lam Giang “Hùng khí Tây Sơn”, Cơ sở tạp chí Tây Sơn, xuất bản 1971, tr. 33.

[10] Cửu Long Giang - Toan Ánh, sđd, tr. 96.

[11] x. “Các dân tộc ít người ở Việt Nam” (các dân tộc phía Nam), tr. 54.

Xem thêm Cửu Long Giang - Toan Ánh, sđd, 93tt.

[12] x. Cửu Long Giang - Toan Ánh, sđd, tr. 106-109.

[13] J.B. Guerlach, “L’Oeuvre néfaste”, Sài Gòn 1906, tr. 28 và 94.

[14] x. “Các dân tộc ít người ở Việt Nam”, sđd, tr. 34.

Xem thêm Annales MEP năm 1912, số 89, tr. 294.

[15] x. J.B. Guerlach, sđd, tr. 101-102.

[16] x. Nghiêm Thẫm, sđd, tr. 18: “Vào cuối thế kỷ XIX, lợi dụng sự suy yếu của Lào và Việt Nam, Thái Lan (Xiêm) muốn thôn tính tất cả tả ngận sông Mêkông. Chính phủ Pháp cử Auguste Pavie lám phó lãnh sự ở Luang-Brabang vẻ bản đồ để phân địnhranh giới giữa Thái, Lào, Việt. Tới ngày 30-10-1893 có hiệp ước giữa Thái và Pháp về vấn đề trên. Nhưng tuỳ theo chính trị của các viên toàn quyền, Cao nguyên Trung phần khi thì bị sáp nhập vào Nam Lào, khi trả lại cho Việt-Nam. Ngày 22-11-1904, tỉnh Dak-Lak mới trả lại cho Việt Nam. Ngày 4-7-1905, Kontum và Bản Đôn cũng mới trả lại cho Việt Nam.

[17] Patrick J.N Tuck, “Thừa sai Công giáo Pháp và các chính sách của Đế quốc tại Việt Nam 1857-1914”, TP. C.M., 1989, tr. 52tt.

[18] Patrick J.B. Tuck, sđd, tr. 481.

[19] Patrick J.B. Tuck, tr. 552-554.

[20] Patrick J.N Tuck, sđd, tr. 831.

[21] Dourisboure, sđd, tr. 35.39.42.

[22] x. Dourisboure, sđd, tr. 111.

Xem thêm Nguyệt san “Chức dịch thư tín”, Địa phận Kontum số 41, tháng 9-1936, tr. 499; số 43, tháng 11-1936, tr. 532-533.

[23] Ông câu PHƯỚC, đang phụ trách họ Chợ Đồn cho người viết bài này biết số chỉ dẫn trên vào năm 1991.

[24] x. Dourisboure, sđd, tr. 95-96.

[25] x. Dourisboure sđd, tr. 309.

[26] Viết theo Dourisboure, sđd, chương X, tr. 96.

[27] Dựa vào Dourisboure, sđd, chương XIV, tr. 143 tt.

[28] Dựa vào Dourisboure, sđd, chương XV, tr. 151tt.

[29] Viết theo Dourisboure, sđd, chương XVIII, tr. 182tt.

[30] Viết theo Dourisboure, sđd, chương XVIII, tr. 188tt.

[31] x. Dourisboure, sđd, tr. 234tt.

Lm. Gioakim Nguyễn Hoàng Sơn
Ghi lại phản hồi, xin nhấn vào »  Nhập ý kiến của bạn:
Ý kiến - nhận xét của bạn về bài:

Trung tâm Truyền giáo Kontrang cho người Sơđang (1)

Tên:
Email:
Ý kiến - nhận xét - Comments:

  (hoặc nhấn phím ESC hoặc nhấn vào khung nền)

Chưa có ý kiến   Pending (3)
TIN - BÀI KHÁC   73 tin bài trong TÀI LIỆU » Nghiên Cứu
  Tại sao Vatican II gọi Giáo hội là ‘Dân Thiên Chúa’ | Father Joseph Thomas
  Câu chuyện chưa biết về Quả cầu vàng của Đền thờ Thánh Phêrô | Mi Trầm
  Bảy sự Thương khó của Đức Maria | Cao Nguyên
  Mộ Thánh Phêrô: Khi khoa học khẳng định Truyền thống | Thérèse Puppinck
  Các giám mục nói rằng thuỷ phân (an táng bằng nước) không khả thi đối với người Công giáo | J-P Mauro
  Tại sao Thánh Bonaventura được mệnh danh là “Bác sĩ thiên thần” | Philip Kosloski
  Cách Giáo hội Công giáo Hy Lạp Ukraina lan rộng ra toàn thế giới | TT
  Nhà thần học luân lý giải thích Giáo huấn Công bình về Chiến tranh và Cuộc chiến ở Ukraine | Cao Nguyên
  Lịch sử đầy biến động của Nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ở Mátxcơva | Cao Nguyên
  Con Hổ trong văn hoá Việt | Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
  Điều gì xảy ra tại buổi Dâng Chúa vào Đền thánh? | Jimmy Akin
  Phúc đáp của Bộ Giáo lý Đức tin đối với nghi vấn về việc chúc phúc cho kết hiệp đồng giới | VoetCatholic
  Cảm tưởng về Tết trong Nam | Vương Hồng Sển
  Tục tắm nước lá mùi đêm Tất niên: ‘Tẩy sạch’ những muộn phiền năm cũ | Tuệ Anh
  Tướng do tâm sinh: Người thiện tâm có tướng mạo hiền lành phúc hậu | An Hoà
  Thủ tục filibuster là gì và tại sao filibuster quan trọng với nước Mỹ? | Hải Đăng
  Đạo Công giáo có cho phép thuỷ táng không? | Lm. Antôn Phạm Trọng Quang, SVD
  3 cách Rửa tội khác nhau trong Giáo hội Công giáo | Mi Trầm
  Điều kỳ diệu của Orvieto: Nguồn gốc ấn tượng của Lễ Mình Máu Thánh Chúa | Kathy Schiffer
  Tâm lý ngày Tết | Thượng Chi (Phạm Quỳnh)
Tìm kiếm trong phần Tin - Bài này
 [Tìm tên bài, tên tác giả, nội dung...]
Ý CẦU NGUYỆN THÁNG 3-2024
Cầu nguyện cho những vị tử đạo mới
Chúng ta hãy cầu nguyện để những ai có nguy cơ phải mất mạng sống vì Tin Mừng tại các nơi khác nhau trên thế giới, làm giàu cho Giáo Hội bởi lòng dũng cảm và sự nhiệt thành truyền giáo của họ.
For new martyrs
Pope Francis urges the faithful to pray during March for “those who risk their lives for the Gospel in various parts of the world.”
Phim - Nhạc - Suy niệm
Xem chuyên mục Media Online
Từ Điển Online:     

Truyền Tin

Email: tt.march25@gmail.com

Website: truyen-tin.net

Online since: May 2010

Tìm kiếm nội dung
(Gõ từ khóa vào vào khung dưới đây)
Tìm kiếm trong Google
Nhấn vào >> Google Search

Liên hệ

Đặt làm trang chủ

@