1) Thiếu thời và học vấn
Đức cha Gioan Baotixita Trần Hữu Đức sinh ngày
24/6/1891. Thân sinh ngài là cụ Trần Hùng, nguyên quán xứ Thọ Ninh, phủ Đức
Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, đã lên nhập cư tại xứ Thổ Hoàng, huyện Hương Khê tự 3 đời.
Cụ là ngoại sinh của Cha Nguyễn Hoàng, một vị giáo sĩ thời danh trong lịch sử
nước nhà cận đại.
Cụ Trần Hùng đã theo giúp Cha Nguyễn Hoàng, hồi đó
đang làm Lễ Bộ Tả Tham Tri ở Huế, dưới triều Đồng Khánh. Ở đó cụ đã kết duyên
với bà Thị Nhiều, người Quảng Nam và đã sinh hạ được 4 người con. Một người con
trai chết khi còn bé, Đức Cha là con thứ ba, hồi đó còn gọi là Gioan Baotixita Long.
Sau khi Cha Nguyễn Hoàng đã về quê hưu trí, thì gia đình ngài cũng về Hà Tĩnh,
ở tại họ Thổ Hoàng ít lâu, rồi sang ở Thổ Vương. Năm ngài lên 10 tuổi, cụ thân
sinh mất, thọ 53 tuổi.
Được hấp thụ một nền giáo dục chắc chắn trong gia
đình, năm 12 tuổi, ngài dâng mình cho Chúa, làm nghĩa tử Cha già Liên, một vị
linh mục thông minh và đạo đức. Cũng thời kỳ ấy, người chị đầu ngài (Chị Tịnh)
mất. Sau khi học tập với cha già ít lâu, năm 1908, ngài vào học tại Chủng viện
Xã Đoài và đổi tên là Gioan Baotixita Đức.
Ngài có óc thông minh, sâu sắc và chăm chỉ, nên
suốt sáu năm ở Chủng viện, niên khoá nào ngài cũng chiếm giải nhất. Mãn trường
năm 1914, ngài được bề trên phái đi giúp cố Nhàn, dạy bổn đạo tân tòng tại họ
Thanh Bích, xứ Đông Tháp 3 năm (1914-1917), rồi được gọi về làm giáo sư Đại
Chủng viện. Năm 1920, bề trên chọn ngài với thầy Nhiên cử đi học trường Penang
bảy năm, cũng dịp ấy mẹ ngài (thọ 60 tuổi) và người em gái (chị Vân) qua đời.
Thầy Gioan Baotixita học ở trường Penang 7 năm, có
tiếng là một học sinh giỏi, ngày 15/8/1925, ngài chính thức nhập hàng giáo sĩ
và trong vòng một năm ấy (ngày 1.10) chịu bốn chức nhỏ trong hàng giáo sĩ. Năm
sau cũng ngày 15/8, ngài lãnh phụ phó tế, rồi tiếp đó, ngày 8/9 lãnh phó tế.
Đến đây thời hạn du học đã hết, ngài trở về nước nhà. Ngày 2.4.1927, ngài thụ
phong linh mục do Đức cha Andrê Bắc tại Nhà thờ Chính toà Xã Đoài, rồi đặt ngài
làm giáo sư Tiểu Chủng viện như trước. Suốt trong 12 năm ngài chuyên môn dạy
Latinh, Pháp văn và Lịch sử Giáo Hội. Tính ngài hiền lành, trung thực luôn để ý
đến sự khai trí tiến đức cho học sinh, nên ai cũng mến phục. Năm 1939, ngài được
bằng nhậm xứ Kẻ Gai. Trong 3 năm ở đó, ngài lo tu bổ thánh đường và đang chuẩn
bị vật liệu sửa sang nhà xứ, thì năm 1942, ngài được lệnh Bề trên sai đi quản
xứ Vạn Lộc. Ở đây ngoài việc coi xứ, ngài đặc biệt chú ý đến củng cố Phước viện
sở tại. Ở đâu ngài cũng được giáo dân mến phục vì đức tính hiền lành và yêu
thương ngài.
2) Phụ tá Tổng quản Đại giám
Giữa lúc ấy thì cuộc cách mạng tháng Tám bùng nổ
đem lại một biến chuyển lớn lao trong chính trị nước nhà và một ảnh hưởng sâu
xa đến tình hình Giáo hội Việt Nam nói chung và Giáo phận Vinh nói riêng. Nhận
thấy thời thế khó khăn cho công việc quản trị Giáo phận nầy, Đức cha Bắc giao
cho Cha Chính Châu, hồi đó còn làm hạt trưởng Xã Đoài triệu tập Hội đồng linh
mục toàn Giáo phận ngày 27/7/1945. Ngài cử Cha Gioan Baotixita Đức làm Tổng
quản Đại giám giúp Ngài trong công việc nội trị và ngoại giao. Sau 34 năm tận
tuỵ với Giáo phận, Đức Cha Bắc vì tuổi già sức yếu lâm bệnh rồi tạ thế ngày
30/71946. Trong 5 năm trời đảm đang nhiệm vụ Tổng quản, giữa thời thế rất khó
khăn này, Cha Gioan Baotixita đã phải đau khổ trăm phần, trải bao phen gian
nguy, nhiều lần túng cực, thế mà ngài cứ thản nhiên bình tĩnh, cậy trông ơn trên,
lấy đức khôn ngoan mà giải quyết mọi việc cách xuôi thuận. Ngài đã vận động cho
công cuộc tổ chức thành lập Liên đoàn Giáo phận nhà ngày 3/6/1946 và đã nhận
chức Tối cao Cố vấn. Trước đây Liên đoàn Công giáo sở dĩ được tổ chức hoàn bị,
có nền tảng chắc chắn và phát triển mạnh mẽ, một phần lớn là nhờ tài lãnh đạo
khôn khéo của Ngài. Ngài đã cho xuất bản tờ báo Tiến Hành, rồi tiếp đó tạp chí
Xây Dựng, ngài đã liệu hết cách để mở lại trường Tiểu Chủng viện từ lâu vì thời
thế bị đóng cửa học sinh về ngày 1.5.1946 và ngày 29.5.1948, đoàn chủng sinh
sau 28 tháng trời lưu lạc đã được ngài kêu gọi trở lại tiếp tục học hành. Ngài
đã nhiệt liệt ủng hộ chính quyền trong công cuộc kháng chiến xây dựng nước nhà.
Đối với Hội đoàn ngoài công giáo, ngài đã xử trí
một cách sáng suốt và nhã nhặn làm cho kẻ mới tiếp kiến ngài lần đầu tiên đã
phải mến phục. Tóm lại về phương diện nội trị cũng như ngoại giao, ngài đã tỏ
ra kiên toàn mọi tư cách một nhà lãnh đạo của Giáo Hội.
3) Giám quản Tông toà
Giữa lúc Toà Giám mục Giám phận Vinh đang trống
ngôi như thế trong 5 năm, giữa lúc toàn thể giáo sĩ và giáo dân đang khắc khoải
nhìn về Toà Thánh chờ đợi một giải pháp, thì ngày 19/7/1950, Thánh Bộ Truyền giáo
ở Rôma, sau khi đã nhận định tình hình và biết rõ tài đức với sự nghiệp của Cha
Gioan Baotixita, đã đặt ngài lên chức Giám quản Tông toà ban cho ngài toàn
quyền quản trị Địa phận. Tin vui ấy đến với Địa phận ngày 4.11.1950 và đã đem
lại một nỗi vui mừng khôn tả, một sự cởi mở khoan khoái cho tâm hồn 18 vạn dân 3
tỉnh. Cha Gioan Baotixita, vì lợi ích Giáo phận, vâng lời đảm nhận lấy trách
nhiệm nặng nề ấy. Công việc đầu tiên của ngài là lo giải quyết những vấn đề lâu
nay chưa ổn định được. Ngày 21/2/1951, trường thần học, sau hơn 4 năm bị đóng
cửa, đã mở đón các sinh viên trở về. Kết quả, cuối tháng 3 năm đó đã có 7 vị
linh mục tân khoa chịu chức ở Thanh Hoá, ngài xếp đặt lên vị trí trong hàng
giáo phẩm, cải tổ các Phước viện… và công bố bản “Đường lối hiện thời của người
Công giáo”.
4) Thăng quyền Giám mục
Trong khi ấy Toà Thánh nhận xét Giáo hội Giáo phận
Vinh đã trưởng thành, giáo sĩ Việt Nam đã đầy đủ khả năng: Một Nghị định mới
của Thánh Bộ Truyền giáo được công bố. Ngày 19/8/1951, Cha Gioan Baotixita tiếp
thư Toà Khâm Mạng Huế tin cho biết: Toà Thánh quyết định giao Giáo phận Vinh
cho Hàng Giáo phẩm bản quốc, đồng thời đặc cử ngài làm Giám mục với hiệu toà
Nicietane, quản trị Giáo phận Vinh thay mặt Toà Thánh. Ai nói hết nỗi vui mừng
và hiên ngang của toàn thể Giáo phận Vinh khi nghe tin ấy. Riêng Cha Gioan
Baotixita, ngài hồi hộp lo sợ, quyết định xin từ chối, nhưng vì các cha yêu cầu
mãi và sợ thiệt hại cho Giáo phận, ngài phải vâng lời Toà Thánh nghiêng vai lãnh
lấy trách nhiệm cao trọng, nhưng rất nặng nề ấy. Ngài là vị Giám mục Việt Nam
tiên khởi Giáo phận Vinh.
Cuộc đời giám mục của Đức cha Trần Hữu Đức đã khai
mạc bằng một ngày khánh nhật của Giáo phận. Nhờ Liên đoàn Công giáo, Khánh nhật
của Giáo phận đã được tổ chức rất long trọng. Nhưng riêng cha Trần Hữu Đức, ngài
đã biết rõ cái ý nghĩa thâm sâu của ngày lịch sử ấy. Đối với ngài ngày ấy, chỉ
là một cuộc “khải hoàn vào thành thánh” tiên báo những ngày đau thương
của tuần lễ tử nạn.
1954, hiệp định Genève được ký kết, phong trào di
cư nổi lên cuồn cuộn như thác lũ từ Bắc vào Thanh Hoá và vào Nghệ-Tĩnh-Bình.
Một số giáo dân Quỳnh Lưu đi trước kéo theo một số ở Phủ Diễn, Vinh, Nam Đàn,
Cửa Lò, Xã Đoài, Hà Tĩnh và Quảng Bình.
Đức cha Trần Hữu Đức như ngơ ngác, như mất tinh
thần, thấy cả một đoàn con cái trên 50.000 người trong ba tỉnh bỏ Giáo phận ra
đi vào miền đất vô định. Chưa hết, nhiều linh mục, nhiều chủng sinh và cả linh
mục Trần Thanh Ngoạn, Giám đốc Đại Chủng viện Xã Đoài, cũng ra đi di cư luôn
nốt.
Lòng Người tê tái sầu muộn, nhưng biết sao được, vì
nhân tình thế sự đổi thay, vì chương trình an bài của Thiên Chúa Quan Phòng,
Người đành giơ tay chấp nhận để rồi không phải chỉ bằng đó mà còn nhiều điều
khác phải chấp nhận nữa. Đó là cuộc chiến từ năm 1966 đến năm 1972 do Mỹ trực
tiếp can thiệp vào Việt Nam. Bao nhiêu máy bay Mỹ đã oanh tạc miền Bắc, cào nát
cả Giáo phận. Nhà thờ Chính toà, các cơ sở của Giáo phận, Đại Chủng viện, Tiểu Chủng
viện, Trường tập, Bệnh viện sụp đổ hoàn toàn… Nhiều hòm Hài Cốt của các Thánh
Tử Đạo tan tành.
Nhiều giáo dân, tu sĩ, giáo sĩ, linh mục và cả Đức cha
phó Nguyễn Đình Nhiên cũng đã từ trần hôm ngày 24.3.1969. Thêm vào đó biêt bao
nhiêu nỗi cơ cực trong tâm hồn, ngoài thể xác đã làm cho ngài già hẳn đi đến độ
kiệt quệ và từ trần hồi 3 giờ sáng ngày 5.1.1971, nghĩa là ngài làm Giám mục 20
năm cộng với 5 năm Tổng quản. Như vậy là 25 năm tất cả, ngài đã dâng hiến để
phục vụ Nước Chúa trong phần Hội Thánh của vùng Nghệ Tĩnh Bình.