Đức cha Vinh Sơn PHẠM VĂN DỤ (1922–1998)
Giám mục Chính toà tiên khởi Giáo phận Lạng Sơn
Giáo
phận Lạng Sơn đã được các linh mục Dòng Ðaminh đến truyền giáo từ năm 1908. Năm
1913, Lạng Sơn thành Phủ doãn Tông toà, và năm 1960 trở thành Giáo phận Chính toà
với vị giám mục đầu tiên người Việt Nam là Ðức cha Vinh Sơn Phạm Văn Dụ.
Ðức
cha Vinh Sơn Phạm Văn Dụ, sinh ngày 14-10-1922, trong một gia đình sùng đạo tại
Phát Diệm, huyện Kim Sơn, Tỉnh Ninh Bình. Ngày mồng 5-3-1960, Cha Dụ được Toà
Thánh bổ nhiệm làm Giám mục hiệu toà, coi sóc Giáo phận Lạng Sơn. Ngày 26-11-1960,
cùng với việc thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam, Ðức cha Phạm Văn Dụ lại được
bổ nhiệm làm Giám mục Chính toà Lạng Sơn. Nhưng hoàn cảnh lúc đó không cho phép
Ðức cha được tấn phong Giám mục. Mãi đến ngày mồng 1-5-1979, Ðức cha Vinh Sơn
Phạm Văn Dụ mới được tấn phong Giám mục, do Ðức cha Phạm Ðình Tụng, Giám mục
Bắc Ninh. Sau đây là sơ lược tiểu sử và hành trình ơn gọi của ngài.
Những
năm tháng ẩn dật (1960-1990)
Theo
lý tưởng chung của các gia đình Công giáo đạo hạnh thời đó, mấy anh em của Vinh
Sơn đều muốn đi tu cả. Phạm Văn Thuyết là anh cả vào học chủng viện nhưng không
bền đỗ. Anh thứ hai là Phạm Văn Lượng đi tu dòng Đaminh được gửi sang học tại
Hồng Kông và đã khấn dòng nhưng cũng không lên tới chức linh mục. Phạm Thị
Nhiệm là em gái út đi tu dòng nữ Đaminh tại Waterloo bên Bỉ.
Lúc
còn nhỏ, Vinh Sơn theo học trường đệ tử dòng Phanxicô Thanh Hoá. Năm 1939, Vinh
Sơn xin vào Tiểu Chủng viện Thánh Têrêxa Lạng Sơn trong chương trình lớp đệ
nhị. Sau đó thì được gởi đi Đại Chủng viện Xuân Bích, Hà Nội. Thầy Dụ đã chịu
chức linh mục năm 1948 do tay Đức cha Hedde. Sau khi ngài chịu chức, Đức cha có
ý định gửi ngài xuống làm phụ tá Cha Jeffro lúc đó đang làm bề trên nhà dòng Đaminh.
Nhưng vì địa phận chuẩn bị mở lại Tiểu Chủng viện, Cha Dụ được gửi lên làm cha
phó tại Đồng Đăng để Cha Haag rảnh rang về Lạng Sơn tu sửa khu Văn Miếu làm
Tiểu Chủng viện.
Sau
khi Đức cha Jacq, Cha Guibert và Cha Nerdeux là những vị truyền giáo cuối cùng
đã bị trục xuất khỏi Địa phận Lạng Sơn, Cha Dụ được Toà Thánh đặt lên chức Tổng
quản Địa phận. Khi được tin ấy, chính quyền Việt Nam đề nghị Cha Dụ lên Thất
Khê coi xứ thay Cha Guibert.
Tại
Thất Khê, ngày 5-3-1960, Cha Dụ được Toà Thánh bổ nhiệm Giám mục, hiệu tòa
Boseta. Thế rồi, ngày 26-11-1960, cùng với việc thiết lập Hàng Giáo phẩm Việt
Nam, Đức cha Dụ được đặt lên làm Giám mục Chính toà Lạng Sơn. Dù vậy, Đức cha
vẫn không được đi đâu để chịu lễ tấn phong Giám mục. Ngay trong dịp Đức cha
Hedde qua đời tại Lạng Sơn ngày 4-5-1960, Đức cha Dụ cũng không có mặt trong
đám tang. Với Đức cha Dụ, theo nguyên tắc, Lạng Sơn đã thành địa phận chính toà,
sau khi được các cha Đaminh Pháp tỉnh Lyon gầy dựng vun tưới trong vòng 50 năm.
Lúc này, ngoài Đức cha Dụ ra, chỉ còn 3 linh mục phục vụ trong địa phận: Cha Thu
ở Cao Bằng, Cha Khái ở Mỹ Sơn và Cha Đức ở Lộc Bình.
Từ
khi lên Thất Khê 1960, Đức cha Dụ sống âm thầm một mình, rất ít liên lạc với
thế giới bên ngoài. Khi quân Trung Hoa tràn sang Việt Nam năm 1979, Đức cha Dụ
đã cùng với một số giáo dân tản cư về Bắc Ninh. Thừa dịp này, Đức cha Phạm Đình
Tụng, Giám mục Bắc Ninh đã làm lễ tấn phong cho Đức cha Dụ trong một nhà nguyện
nhỏ tại Toà Giám mục Bắc Ninh ngày 1-5-1979. Sau lễ tấn phong, Đức cha đã trở
về Thất Khê, không có sự thay đổi gì.
Ngày
2-4-1979, Đức cha Micae Nguyễn Khắc Ngữ từ Long Xuyên báo tin ra ngoại quốc như
sau:
“Đức
cha Dụ biên thư cho tôi từ Bắc Ninh ngày 15-3-1979 và Đức cha Tụng ngày 19-3, ngài
cho biết là Đức cha Dụ sau 10 ngày tản cư qua rừng, đã tới Bắc Ninh ngày 28-2
để bắt đầu Mùa Chay. Tại đây có thầy Quỳnh và 100 giáo hữu Lạng Sơn cũng tản cư
về. Còn Cha Khái đã về Bùi Chu, Cha Đức không tin gì, thầy Thảo có lẽ bị pháo
kích chết tại Đồng Đăng. Đàng khác, quân Tàu phá sụp gác chuông Nhà thờ Chính toà
Lạng Sơn; khu nhà các bà Notre Dame des Missions (Văn Miếu) ở Cửa Nam cũng bị
phá. Nhà xứ Thất Khê chỗ thì mất mái, chỗ đổ tường. Còn Cao Bằng chưa rõ tin
gì… Những ngày hai Đức cha ở cùng nhau vui vẻ êm đẹp lắm, và như vậy tinh thần
Đức Cha Dụ lên khá cao, để trở về tái thiết giáo phận từ con số không. Ngài xin
chúng tôi giúp đỡ, chúng tôi sẽ cố”.
Ngày
30-12-1986, Đức cha Vinh Sơn viết ra ngoại quốc: “Tháng 7 vừa qua chúng tôi
bị một cơn lụt kinh khủng, đến nóc nhà thờ Thất Khê. Không bị ai chết, nhưng về
đồ đạc của cải thì giục xuống bùn cả. Ngẫm nghĩ mà thấy ứng nghiệm biết bao lời
của các cụ xưa đã bảo: nạn vô đơn chí”.
Từ
năm 1987 thì Đức cha có vẻ tự do hơn về tin tức. Ngày 25-8-1987, ngài viết: “Tôi
ngồi đây gần 30 năm rồi, có được tự do đi đến đâu đâu! Hội đồng Giám mục thế
giới đến nơi, dĩ nhiên tôi chả hy vọng chút nào được đi. Tôi thông công bằng
lời cầu nguyện vậy…”.
Năm
1987, chị dòng Phạm Thị Nhiệm, người em gái của Đức cha ở Âu châu có được về
thăm ngài trong những ngày từ 15 đến 21-11. Chị viết:
“Nhìn
thấy cái bàn giấy của anh sao mà buồn thế; có mấy quyển sách nó xấu xí; con hỏi
tại sao thì anh nói bị ướt vì năm vừa rồi bị lụt. Bàn ghế cũng chả ra sao cả.
Rồi cái màn cửa để chia từ phòng giấy qua phòng ngủ lại là một miếng bao tải,
trông thảm ơi là thảm. Sau khi con hỏi những sách em gửi về ở đâu. Ngài nói:
“Có người họ cần hơn, anh để cho người ta”.
Chị
chia sẻ tiếp: “Con thấy anh con sống rất là đơn sơ, không có vội vã và rất
là bình tĩnh, con thì lo sợ, xong thấy anh con cứ rửng rưng. Con có cảm tưởng
như có người anh “độc ẩn sĩ” và mục đích của anh là sống theo tinh thần Phúc Âm”.
Ngày
11-2-1989, Đức cha viết: “Năm nay tôi được lên dâng lễ Noel mãi trên Cao
Bằng. Lễ nửa đêm sau vài chục năm im lặng, không khí cảm động khác thường. Đứng
trên bàn thờ, tôi phải im lặng đến hơn 15 phút, vì họ chen chúc nhau đông quá,
tưởng như nhà thờ sắp bể”.
Những năm tháng hy
vọng (từ 1991 đến 2-9-1998)
Năm
1990, Đức cha Vinh Sơn Phạm Văn Dụ về Lạng Sơn sau 31 năm ẩn dật tại Thất Khê.
Toà Giám mục được tạm thời đặt tại khu Văn Miếu, Cửa Nam.
Trong
tạp chí “Các Giáo Hội Á Châu” (Pháp ngữ) cũng đề cập đến Đức cha Vinh Sơn Phạm
Văn Dụ. Theo nguồn tin của tạp chí này số 101 ngày 16-12-1990 cho hay, chính
quyền Việt Nam đã thừa nhận Đức cha Vinh Sơn là Giám mục Lạng Sơn - Cao Bằng
sau khi phái đoàn Hồng y Etchegaray gặp gỡ và thương lượng với chính phủ từ
ngày 6 đến ngày 12-11-1990. Dầu vậy Đức cha Vinh Sơn vẫn không thu xếp kịp để
cùng đi với 21 Giám mục Việt Nam sang triều yết Đức Thánh Cha vào những ngày
cuối tháng 11 và đầu tháng 12-1990.
Sau
khi được thừa nhận làm giám mục, Đức cha bắt đầu được tự do đi lại. Ngày 21-1-1991,
Đức cha đã viết sang Pháp cho Cha Phạm Phúc Khánh như sau:
“Chắc
cha đã cầu nguyện nhiều nên nay tôi được viết mấy chữ này cho cha từ thành phố
Hồ Chí Minh. Phải, cha có thể tưởng tượng được không? Tôi đã được giấy vào đây
25 ngày để thăm Đức cha Ngữ. Vừa rồi chính quyền Lạng Sơn đã gọi và bảo cho tôi
hay là nhà nước đã công nhận tôi là Giám mục của Lạng Sơn. Sau 31 năm chờ đợi,
tôi cũng đã già rồi, chả còn sức để đi đây đó trong địa phận để làm ích cho
giáo dân. Cha già Quỳnh đã hơn 80 tuổi rồi, nhưng ngài vẫn còn hăng hái lắm. Kỳ
đi vắng này tôi giao cả địa phận cho ngài. Tôi được nhà nước công nhận, nhưng
vẫn còn phải ở Thất Khê, chưa được về Lạng Sơn. Sự thực cũng khó nghĩ vì bây
giờ về Lạng Sơn thì không biết rúc vào đâu. Cha về mau mà xây dựng lại địa
phận. Được công nhận là Giám mục, tôi nói đến vấn đề Ad limina, nhưng Ban Tôn
giáo trung ương nói: từ từ”.
Ngày
19-8-1991, Đức cha Dụ đã đáp máy bay sang Rôma để triều yết Đức Thánh Cha và
nhân tiện chữa bệnh luôn. Ngài nghỉ tại nhà quản lý Phát Diệm ít ngày rồi đi
chữa bệnh tại Clinique Regina Mundi, Roma.
Theo
báo “Dân Chúa”, số 110, tháng 12-1991, thì lúc 7 giờ sáng ngày 18-11-1991, Đức
cha Dụ đã dâng Thánh Lễ với Đức Thánh Cha trong nhà nguyện riêng tại Vatican.
Cùng dâng Thánh lễ còn còn có 6 linh mục Việt Nam đến từ thành phố Hồ Chí Minh
và Hoa Kỳ. Sau Thánh lễ, Đức Thánh Cha đã mời Đức cha Dụ dùng bữa sáng với ngài.
Đức Thánh Cha đã tặng Giám mục Lạng Sơn một chén lễ quý giá.
Sau
khi Đức cha chữa bệnh ít lâu tại Rôma, các bác sĩ cho biết bệnh tình của ngài
không thể chữa khỏi hẳn được. Ngày 22-11, ngài được phép sang Bỉ thăm người em
gái đồng thời đi hành hương Lộ Đức và Lisieux. Đến lúc cần phải đi Lyon cùng
với Đức cha Jacq để gặp cha quản lý tỉnh Dòng Đaminh thì ngài mệt không đi
được. Ngày 7-12, Đức cha đã trở về Việt Nam. Kể từ đó ngài dọn về ở Toà Giám mục
Lạng Sơn.
Bước
sang năm 1993 thì đời sống của Đức cha bắt đầu trở nên bình thường. Tuần Thánh
năm đó, giáo dân các nơi trong khu vực kéo đến mừng lễ Phục Sinh rất sầm uất và
long trọng. Mừng lễ Phục Sinh ở Lạng Sơn xong, Đức cha đi các nơi: Thất Khê,
Cao Bằng, Bố Từ, Tà Lùng. Đi đến đâu, ngài cũng phải một mình làm mọi việc:
giải tội, rửa tội, cho chịu lễ lần đầu, xức dầu bệnh nhân, giải quyết các đôi
vợ chồng rối ren. Năm ấy địa phận chỉ còn có Đức cha, khi ấy đã 71 tuổi và Cha già
Quỳnh 87 tuổi hoạt động trong cả miền.
Năm
1993, khởi công xây Toà Giám mục. Dự định sẽ xây tiếp Nhà thờ Chính toà nhưng
chưa thành. Năm 1995, khởi công xây dựng Nhà thờ Thanh Sơn, Cao Bằng. Năm 1996,
xây Nhà thờ Cao Bình. Sang năm 1997, sức khoẻ của Đức cha ngày một giảm sút.
Ngày 9-3-1998, Toà Thánh phê chuẩn đơn xin nghỉ hưu của Đức cha. Bệnh tình ngày
càng trầm trọng, ngài đã qua đời lúc 0 giờ 45 ngày 2-9-1998, sau 38 năm phục vụ
Hội Thánh Chúa trong lặng lẽ ngang qua chức vụ giám mục của mình.
[Tóm
tắt theo: Lm. Phạm Phúc Khánh, Lược Sử Địa Phận Lạng Sơn, Cannes, 1994]
GP. Lạng Sơn